Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline gioidinhhue  
#1 Đã gửi : 12/03/2011 lúc 04:22:33(UTC)
gioidinhhue

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 12-03-2011(UTC)
Bài viết: 4
Đến từ: vn

Cảm ơn: 3 lần
Thích nhất là thuật xử thế của người xưa , cám ơn nhiều lắm nha

Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này
thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng
thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!
http://www.niemphat.net/


Nam Mô A Di Đà Phật
http://www.niemphat.net/
Quảng cáo
Offline gioidinhhue  
#2 Đã gửi : 12/03/2011 lúc 04:25:13(UTC)
gioidinhhue

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 12-03-2011(UTC)
Bài viết: 4
Đến từ: vn

Cảm ơn: 3 lần

Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc người huyện Phụng Hóa tỉnh Triết Giang
tánh tình trung hậu, thuần phác. Năm Dân Quốc 35 (1946) ông đến Ðài
Loan kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang & xưởng dụng cụ
giao thông Trung Lập khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967) ông được
đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Ðài Bắc nghe hòa thượng Tịnh Không
giảng kinh ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp.
Ông quy y với lão hòa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lão Sám Vân ở Thủy Lý, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới.

Mùa Ðông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương
Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm trì giới luật, chuyên tu
Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ý nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương.
Ông thường cúng Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng
tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở
Tam Giáp Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lãnh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.

Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), vì bịnh tật, ông phải về nhà chữa trị,
nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Ðầu tháng Ba năm Dân
Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng
vô hiệu, phải đưa vào bịnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Hòa để chữa.
Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:

- Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!

Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều bình thường, dặn dò ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:

- Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn ngài!

Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:

- Có chuyện gì làm ba không được thoải mái hả?

- Không có!

Ðúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào
nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng
niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây
quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lão Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ
và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra
hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Ðến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ còn mỗi đảnh đầu là ấm.

Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. Vì tứ chi
của ông đã cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt
ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau
đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống.

Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng
niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đã nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới.

(theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)

Nhận định:

Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ trì Tam Quy, Ngũ
Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.

Lập Tịnh nghiệp lâm để cộng tu là người tự lợi, lợi tha. Càng bịnh
càng tinh tấn là mượn bịnh để tiềm tu. Chợt dặn dò ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.

Mỉm cười chắp tay ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến
thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là
mình đã vãng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hãy bắt chước ông tinh tấn!

Trích: Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập


Nam Mô A Di Đà Phật
http://www.niemphat.net/
Offline gioidinhhue  
#3 Đã gửi : 12/03/2011 lúc 04:27:05(UTC)
gioidinhhue

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 12-03-2011(UTC)
Bài viết: 4
Đến từ: vn

Cảm ơn: 3 lần

Có một thứ mà bạn phải mang theo khi chết: đó là nghiệp. Nghiệp là kết quả của những hành động của chúng ta. Nghiệp tốt và nghiệp xấu theo
ta không rời bước. Ta không thể nào xua đuổi nó được dù ta có muốn đi nữa.


“Sự Khẩn Cấp Chụp Lấy Tôi”


Dưới thời Ðức Phật có một vị tỳ khưu trẻ sinh trưởng trong một gia
đình giàu có. Trẻ trung và tráng kiện, thầy có đủ cơ hội để hưởng thụ
mọi lạc thú của cuộc đời trước khi xuất gia. Thầy có sức khỏe, có đông
bạn bè và thân quyến, và sự giàu có sung túc này khiến thầy được mọi
người chiều chuộng và làm vừa lòng. Nhưng thầy đã từ bỏ tất cả để đi tìm sự giải thoát.

Một ngày nọ, nhà vua cưỡi ngựa dạo trong rừng. Thấy nhà sư trẻ, nhà
vua dừng ngựa, đến gần và hỏi, “Thưa đại đức, đại đức còn trẻ trung và
khỏe mạnh, và đang ở vào lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, Ðại đức lại
sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Tại sao đại đức bỏ lỡ cơ hội để
hưởng thụ tuổi trẻ của mình? Tại sao lại từ bỏ gia đình, khoác áo nhà tu
và sống một mình? Ðại đức có thấy cô đơn không? Có thấy chán nản không?”

Nhà sư trẻ trả lời, “Thưa ngài, khi nghe lời giảng dạy của Ðức Phật,
trong tôi đã khởi lên một tinh thần cấp bách. Sự cấp bách này đã thúc
đẩy tôi. Tôi muốn trích xuất ra từ cơ thể này những cái gì quí báu nhất
trước khi tôi từ giã cõi đời. Ðó là lý do tại sao tôi từ giã đời sống thế tục và khoác lên mình chiếc y vàng.”

Nếu bạn vẫn chưa đồng ý là cần phải hành thiền một cách cấp bách — mà
không dính mắc vào thân thể hay đời sống — thì những lời dạy sau đây
của Ðức Phật cũng có thể làm bạn đổi ý mà tinh tấn thực hành. Ðức Phật
dạy chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng thân thể này chẳng gì khác hơn
là sự hợp thành của danh và sắc. Danh và Sắc không thể tồn tại được dù
trong một thời điểm ngắn ngủi. Danh Sắc trôi chảy không ngừng. Một khi
đã có thân tâm này, thì chẳng có cách gì làm cho nó đừng già. Khi còn trẻ ta muốn mình mau lớn, khi lớn tuổi lại muốn mình đừng già.


Chúng ta muốn được khỏe mạnh, nhưng sự mong mỏi của chúng ta không
bao giờ được thỏa mãn. Chúng ta bị đau khổ và bất toại nguyện, bị bệnh
tật dày xéo suốt cuộc đời. Chúng ta không thể nào sống mãi mãi được. Tất
cả chúng ta đều phải chết. Chết là điều trái ngược với lòng mong cầu
của chúng ta, nhưng chúng ta không ngăn cản được. Chỉ có một điều là lúc
nào cái chết sẽ đến mà thôi. Ta không thể nào ngăn cản đừng cho thân thể này thay đổi hay biến chuyển theo thời gian.

Không một ai trên thế gian này có thể cam kết rằng những điều ước ao
của chúng ta về một đời sống phát triển, khỏe mạnh và bất tử sẽ được bảo
đảm. Người ta từ chối chấp nhận sự thật. Già muốn làm cho trẻ ra. Các
nhà khoa học cố gắng tìm đủ mọi phương pháp, phát minh ra những máy móc
kỳ diệu để trì hoãn tiến trình hủy diệt của con người. Họ cố tìm cách
làm sống lại những người đã chết. Khi đau ta uống thuốc để cảm thấy dễ
chịu. Nhưng dù cho có lành bịnh thì ta cũng đau lại, không thể đi ngược lại với thiên nhiên. Chúng ta không thể tránh khỏi già, bệnh, chết.

Ðiểm yếu đuối chính của chúng ta là thiếu an toàn. Hãy nhìn những
sinh vật khác, những con thú, và nhất là con người. Có chỗ trú ẩn nào để tránh khỏi già, bệnh và chết không?

Nếu bạn hành thiền tích cực, bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy những
sự kiện này hiển bày trước mắt bạn. Nếu bạn có thể thấy bằng trực giác
sự sinh diệt của các hiện tượng thân tâm, bạn sẽ biết rằng chẳng có một
chỗ an toàn nào để ẩn trú cả. Không có một nơi nào an toàn. Dầu trí tuệ
của bạn chưa đạt được điểm này, nhưng khi suy tư về sự không bền vững
của cuộc sống cũng khiến bạn có những tư tưởng khẩn cấp và một sự khích
lệ mạnh mẽ trong việc hành thiền cũng phát sinh. Thiền minh sát có thể dẫn bạn đến một nơi thoát khỏi những điều sợ hãi này.

Con người cũng có một điểm rất yếu nữa là không có quyền sở hữu. Ðiều
này có vẻ kỳ lạ. Chúng ta được sinh ra, chúng ta bắt đầu có sự hiểu
biết, chúng ta có tín nhiệm, phần lớn có việc làm và mua sắm với tiền
lương của mình. Chúng ta gọi đó là tài sản của chúng ta. Và trong một
mức độ tương đối, đó là những gì mà ta có. Không nghi ngờ gì về việc
này. Nếu tài sản thật sự là của ta thì ta không bao giờ bị xa rời chúng.
Nếu chúng bị vỡ hay mất, thì làm sao ta có thể gọi đó là của sở hữu của
chúng ta? Trong ý nghĩa tuyệt đối của nó, khi con người chết, chẳng có
thể mang theo được gì. Mọi vật chúng ta có được, chúng ta tồn trữ, thu
vét, đều phải để lại. Bởi thế, có thể nói rằng, tất cả chúng sanh đều không có quyền sở hữu. Vào lúc chết, tất cả tài sản đều phải bỏ lại.

Của sở hữu chia làm ba loại. Bất động sản là những thứ ta không mang
đi được như đất đai, nhà cửa, v.v… Theo tục đế, thì nó thuộc về bạn,
nhưng bạn phải bỏ nó lại khi bạn chết. Loại tài sản thứ hai, là động
sản, là những thứ ta có thể mang đi được như ghế bàn, áo quần, đồ dùng,
v.v… Sau đó là kiến thức, mỹ thuật và khoa học, tài năng bạn dùng để duy
trì cuộc sống và gia đình. Bao lâu chúng ta còn có một cơ thể lành mạnh
thì tài sản, kiến thức rất cần thiết, tuy nhiên, không có một bảo đảm
nào để tránh khỏi sự mất mát. Bạn có thể quên những điều bạn biết. Bạn
có thể bị cấm đoán bởi chánh quyền, hay gặp những chuyện bất hạnh khác
khiến bạn không thể xử dụng những hiểu biết của bạn. Chẳng hạn như bạn
là một bác sĩ giải phẫu, nhưng chẳng may tay bạn bị gãy hoặc gặp những
bất trắc khác khiến bạn bị loạn thần kinh nên bạn không thể tiếp tục nghề nghiệp của mình.

Không một loại tài sản nào trên đây có thể đem lại sự an toàn cho bạn
ngay khi bạn còn đang sống trên mặt đất này nói chi đến đời sau. Nếu
bạn hiểu rằng mình chẳng làm chủ một thứ gì cả, và sự sống này chuyển
biến không ngừng, thì bạn sẽ cảm thấy an lạc nhiều hơn khi mọi đổi thay xảy đến cho bạn.

Gia Tài Thật Sự Của Chúng Ta

Tuy nhiên, có một thứ mà bạn phải mang theo khi chết: đó là nghiệp.
Nghiệp là kết quả của những hành động của chúng ta. Nghiệp tốt và nghiệp
xấu theo ta không rời bước. Ta không thể nào xua đuổi nó được dù ta có muốn đi nữa.

Sự tin tưởng rằng nghiệp là gia tài của bạn, khiến bạn hăng say trong
việc hành thiền. Bạn sẽ hiểu rằng những hành động thiện là căn bản, là
vốn đầu tư hạnh phúc trong tương lai, và hành động bất thiện sẽ đem lại
cho bạn nhiều đau buồn sau này. Ðược như thế, bạn sẽ làm nhiều việc
thiện phát xuất từ lòng từ ái. Bạn sẽ giúp đỡ cho bệnh viện, cho những
người đau khổ vì thiên tai; bạn hỗ trợ cho những người trong gia đình,
các bà con thân quyến, lo cho người già, người tàn tật và cô đơn, bạn
bè, và những người cần sự giúp đỡ. Bạn muốn tạo một xã hội tốt đẹp hơn
bằng cách giữ gìn giới luật trong sạch; có lời nói và việc làm hợp theo
lẽ đạo. Bạn sẽ đem lại sự bình an cho mọi người xung quanh bằng cách
hành thiền và chế ngự các phiền não đang dâng tràn trong tâm mình. Bạn
sẽ tuần tự thành đạt các tuệ giác, và cuối cùng nhận chân được mục đích
tối hậu. Tất cả các việc làm như bố thí, cúng dường, giữ gìn giới luật
cũng như hành thiền đều sẽ theo bạn sau khi bạn chết như bóng với hình. Bởi thế, hãy cố gắng làm các việc lành!

Tất cả chúng ta đều nô lệ cho ái dục. Ðó là một điều hèn hạ xấu xa,
nhưng đó là sự thật. Ái dục chẳng bao giờ no chán, vô chừng vô độ, không
sao thỏa mãn nổi. Khi nhận được một vật chưa đúng ý mình, bạn tìm cách
để có một vật khác. Và khi có được vật mình ưa thích rồi, bạn lại muốn
được một vật mới lạ khác nữa. Lòng tham muốn không bao giờ được thỏa
mãn. Ðó là bản chất cố hữu của con người. Túi tham không đáy! Tham ái
không bao giờ thỏa mãn được tham ái. Nếu hiểu đúng đắn chân lý này,
chúng ta sẽ không tìm kiếm sự thỏa mãn bằng cách tự hủy hoại mình như thế. Vì vậy, Ðức Phật nói: “Biết đủ là gia tài lớn lao nhất.”

Bạn hãy đọc câu chuyện về người đan rổ sau đây: Có một người đan rổ
bình dị, luôn luôn vui sống với công việc của mình. Anh ca hát, và huýt
sáo suốt ngày trong khi ngồi đan rổ. Tối đến, anh trở về căn chòi lá bé
nhỏ của mình và ngủ một giấc ngủ ngon lành. Ngày nọ, một nhà triệu phú
đi ngang qua chỗ anh bán rổ. Thấy anh nghèo nàn, nhà triệu phú thương hại và tặng một ngàn đồng.

Anh đan rổ nhận tiền với lòng biết ơn. Anh ta chưa từng có đến một
ngàn đồng trong đời. Anh cầm tiền và trở về căn chòi xiêu vẹo của mình.
Anh phân vân không biết nên cất ở đâu. Căn lều này chẳng an toàn chút nào. Suốt đêm anh trằn trọc không ngủ vì sợ trộm, sợ chuột cắn nát tiền.

Sáng hôm sau, anh đem túi tiền ra chỗ mình ngồi đan và bán rổ, nhưng
anh không hát và huýt sáo như thường lệ, vì anh lo lắng cho số tiền. Tối
đó, anh lại mất ngủ nữa. Sáng hôm sau, anh đem tiền trả lại cho nhà triệu phú và nói: “Xin hãy trả lại hạnh phúc cho tôi”.

Bạn có nghĩ rằng Ðức Phật không muốn bạn tạo kiến thức và uy tín,
không muốn bạn hăng say làm việc để kiếm tiền nuôi bản thân và gia đình
và dành dụm phòng khi đau ốm hay gặp cảnh khó khăn chăng? Không phải
vậy! Bằng mọi cách, hãy xử dụng đời sống và trí thông minh của bạn để thỏa mãn các nhu cầu của mình một cách hợp pháp và lương thiện.

Hãy tri túc, bằng lòng với những gì mình đang có! Ðừng nô lệ cho lòng
tham ái của mình. Ðó là thông điệp của Ðức Phật. Hãy suy tưởng về sự
yếu kém của chúng sanh, để tận dụng tối đa thân thể và đời sống này
trước khi nó quá già, quá bệnh, không đủ sức để hành thiền và trở thành một cái thây vô dụng.

Thiền sư U Pandita


Nam Mô A Di Đà Phật
http://www.niemphat.net/
Offline gioidinhhue  
#4 Đã gửi : 12/03/2011 lúc 04:28:17(UTC)
gioidinhhue

Danh hiệu: Thành viên mới

Nhóm:
Gia nhập: 12-03-2011(UTC)
Bài viết: 4
Đến từ: vn

Cảm ơn: 3 lần

Sau khi mạng chung, tùy theo nghiệp nhân đã gây tạo của mỗi người mà
có biểu hiện lâm chung và tái sinh vào những cảnh giới khác nhau. Các
cảnh giới ấy là gì? Biểu hiện khi lâm chung ra sao? Đó là những vấn đề quan yếu cần lưu tâm trong hành trang tu tập của mỗi người con Phật.

Nghiệp – nhân tố quyết định

Động lực dẫn dắt con người tái sinh trong ba cõi, sáu đường, theo đạo
Phật, đó là nghiệp. Nghiệp là những hành động có tác ý. Bốn loại nghiệp
sau đây chi phối sự tái sinh của con người: Cực trọng nghiệp là những
nghiệp cực nặng như ngũ nghịch, thập ác… Tập quán nghiệp là những nghiệp
thường tạo tác, trở thành thói quen. Tích lũy nghiệp là những nghiệp
do tích lũy nhiều đời. Cận tử nghiệp là nghiệp biểu hiện ra lúc lâm
chung. Nếu không có Cực trọng nghiệp hay Tập quán nghiệp nào làm điều
kiện cho sự tái sinh thì Cận tử nghiệp hoặc Tích lũy nghiệp sẽ dẫn dắt thọ sinh.

Các cảnh giới tái sinh

Có hai hướng vận hành đối với thần thức sau khi chết. Nếu người nào
hiện đời nỗ lực tu hành, đạt đến cảnh giới nghiệp sạch, tình không tất
được giải thoát; hoặc như thành tựu thiền định sẽ sinh về các cõi thiền
(Sắc và Vô sắc); hay người nào hiện đời phát tâm tín nguyện niệm Phật thì khi lâm chung sẽ được vãng sinh về cảnh giới Tây phương Cực lạc.

Còn lại đa phần chúng ta đều phải tái sinh vào một trong sáu cảnh
giới luân hồi. Sáu cảnh giới đó là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A tu la,
Người và Trời. Tùy theo nghiệp lành hay dữ mà thần thức tái sinh vào một trong sáu cảnh giới ấy.

1 – Sinh vào Địa ngục

Địa ngục là cảnh giới tăm tối, khổ đau. Người nào tạo các nghiệp cực
ác như ngũ nghịch, thập ác… lâm chung sẽ đọa vào cảnh giới đau khổ này.
Biểu hiện của người sắp đọa vào địa ngục như sau: Nhìn ngó thân quyến
với ánh mắt giận dữ; nằm úp mặt hoặc che giấu mặt, thân hình và miệng mồm hôi hám; cơ thể co quắp, tay chân bên trái ấn xuống đất.

2 – Sinh vào Ngạ quỷ

Ngạ quỷ là cảnh giới mà chúng sinh thường xuyên bị đói khát và sợ
hãi. Những ai hiện đời tạo các nghiệp ác cùng với tánh tham lam, keo
kiệt… sau khi chết sẽ đọa vào cảnh khổ này. Người lâm chung đọa vào Ngạ
quỷ có biểu hiện sau: Thân nóng như lửa; thường lo đói khát, hay nói đến
việc ăn uống; không đại tiện nhưng tiểu tiện nhiều; đầu gối bên phải lạnh trước; tay bên phải nắm lại (biểu hiện lòng bỏn xẻn).

3 – Sinh vào Súc sinh

Súc sinh hay bàng sinh là các loại sinh vật có hình thù đa dạng, tâm
thức tăm tối. Người nào hiện đời tạo các ác nghiệp cộng với tánh si mê,
ngu độn… sau khi chết đọa vào Súc sinh. Những biểu hiện tái sinh vào
cảnh giới này như sau: Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ; ngón tay và
ngón chân đều co quắp; toàn thân toát mồ hôi; tiếng nói khò khè; miệng thường ngậm đồ ăn.

4 – Sinh vào A tu la

A tu la còn gọi là Phi thiên, đây là hạng chúng sinh có hình tướng
hung dữ, tâm luôn sân hận. Người nào hiện đời tuy có tu tập ngũ giới
nhưng tâm còn nhiều sân hận và lòng dục nhiễm, sau khi chết sẽ đọa vào
cảnh giới này. Có thể nói A tu la là một dạng khác của ngạ quỷ. Do vậy,
biểu hiện lâm chung của người nào sắp tái sinh về cảnh giới A tu la gần giống như chúng sinh sắp tái sinh về ngạ quỷ.

5 – Sinh vào cõi Người

Cõi người là cảnh giới chúng ta đang sống, thọ hưởng hạnh phúc lẫn
khổ đau. Loài người có đầy đủ những thuận duyên để tu học giáo pháp của
Đức Phật. Những ai hiện đời có niềm tin đối với Tam bảo và thọ trì năm
giới, sau khi chết sẽ được tái sinh vào cõi Người. Nếu được tái sinh làm
người, lúc lâm chung có những biểu hiện sau: Khởi niệm lành, sinh lòng
hòa dịu, ưa việc phước đức; sinh lòng chánh tín, thỉnh Tam bảo đến đối
diện quy y; thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng; tâm chánh trực
không ưa dua nịnh; dặn dò giao phó các công việc cho thân quyến rồi từ biệt ra đi.

6 – Sinh vào cõi Trời

Cõi Trời tức sáu tầng trời của Dục giới, chúng sinh ở cảnh giới này
thân tướng trang nghiêm, hưởng phước lạc tự nhiên, sự ăn mặc thọ dụng
đều tùy niệm hóa hiện. Người nào hiện đời tu Thập thiện sau khi lâm
chung được tái sinh về cõi Trời. Khi lâm chung được sinh về cõi Trời sẽ
có những biểu hiện sau: Phát khởi tâm lành; chánh niệm rõ ràng; đối với
vợ con, tài sản lòng không lưu luyến; không có những sự hôi hám; ngửa mặt lên và nghĩ tưởng Thiên cung.

Trên đây là những biểu hiện lâm chung của sáu cảnh giới trong lục
đạo. Tuy vậy, không phải mỗi trường hợp đều biểu hiện đầy đủ, mà đôi khi
chỉ biểu lộ những điểm thiết yếu. Mặt khác, có người khi chết không
biểu hiện tướng lành dữ. Muốn dự đoán cảnh giới tái sinh của họ, phải dựa theo hơi nóng lưu lại trên thân mới có thể quyết đoán được.

Vãng sinh về Tịnh Độ

Người nào hiện đời tu hành phát tâm tin sâu, nguyện thiết, chuyên trì
Thánh hiệu Phật, khi thân hoại mạng chung thần thức sẽ được Phật và
Thánh chúng hiện thân tiếp dẫn về Tịnh Độ. Lâm chung được vãng sinh về
Cực lạc có những biểu hiện sau: Tâm không loạn động; biết trước giờ
chết; tự mình niệm Phật; mùi thơm lạ tỏa khắp nhà; có hào quang; tự nói
kệ để khuyên dạy đệ tử; nhạc Trời trổi giữa hư không. Nếu có đầy đủ các
điểm tốt kể trên thì chắc chắn được phẩm vị cao. Nếu chỉ được một vài điểm tốt thôi, cũng được vãng sinh về Tịnh Độ.

Sáu cảnh giới mà chúng sinh sau khi mạng chung sẽ tái sinh vào, trong
đó bốn cảnh trước hoàn toàn khổ đau, hai cảnh giới Trời và Người tuy có
hạnh phúc hơn nhưng vẫn bị khổ đau chi phối. Do vậy, cần nỗ lực tu tập
để thoát ly sinh tử hoặc phát tâm thọ trì danh hiệu Phật để lúc lâm chung được tiếp dẫn, vãng sinh về nước Phật.

Theo Giác Ngộ


Nam Mô A Di Đà Phật
http://www.niemphat.net/
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.