Trang chủ HIV  |  Web Link  |  Giới thiệu |  Liên hệ  |  English 
hiv logo

Thông báo

Icon
Error

Đăng nhập


2 Trang12>
Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to last unread
Offline congtu_dangyeu259  
#1 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:26:36(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết
<p class="viethead" align="center">Lãng mạn pháp luật</p> <p class="viet10 style6 style25" align="center"></p> <p class="style32" align="center"><strong>Lời nói đầu</strong></p> <p class="style28" align="center"></p> <table cellspacing="0" cellpadding="0" width="97%" align="center" border="0"> <tbody> <tr> <td> <div class="cochu" style="LINE-HEIGHT: 150%" align="justify"> <p align="justify">Nói đến pháp luật, ta thường nghĩ ngay đến những cái gì nghiêm túc, hiện thực, liên quan đến việc điều chỉnh các hành vi, cái mối quan hệ của con người trong xã hội bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, rõ ràng, dứt khoát, nhằm xác lập một trật tự. Ít ai hình dung rằng pháp luật cũng như bao lĩnh vực khác, có hiện thực và có cả lãng mạn.<br />So với các lĩnh vực khác thì pháp luật là lĩnh vực chứa nhiều nhân tố triết lý tiềm ẩn của sự lãng mạn hơn. Bởi lẽ, pháp luật là cái hữu hạn, tĩnh tại. Cuộc đời là cái vô hạn và luôn vận động. Đem cái hữu hạn trùm lên cái vô hạn, đem cái tĩnh tại trùm lên cái vận động đã là việc làm lãng mạn rồi. Sự lãng mạn của pháp luật bắt nguồn từ bản chất của chính nó. Dù cố gắng đến đâu thì con người cũng không thể điều chỉnh sự vô hạn của thực tiễn bằng những quy phạm pháp luật chứa trong một số hữu hạn các văn bản. Hơn nữa, thực tiễn biến động hàng ngày hàng giờ, còn các quy phạm pháp luật thì lại đòi hỏi phải ổn định, cho nên chỉ một thoáng là cái vận động thoát ra khỏi cái tĩnh tại, có khi nó thoát đi khá xa. Lúc bấy giờ pháp luật như tấm chăn nhỏ phủ trên mình đứa trẻ khổng lồ nhưng lại phủ ra chỗ trống không. Sự lãng mạn đã sinh ra từ đấy.<br />Tuy pháp luật không thể phủ kín hiện thực đời sống nhưng nhân loại vẫn phải dùng pháp luật để điều chỉnh và ổn định các quan hệ xã hội vì nhân loại chưa tìm ra cách gì tốt hơn là dùng pháp luật. Lịch sử đã từng xuất hiện thuyết nhân trị và thuyết pháp trị. Thuyết nhân trị của Khổng Tử thì cho rằng: “cai trị không cần tới pháp luật” mà chỉ dựa vào lễ, nhạc để giáo hóa con người tu thân, biết nghĩa vụ của mình mà làm, từ đó xã hội tất yếu sẽ có trật tự. Còn thuyết pháp trị mà tiêu biểu là Hàn Phi Tử thì cho rằng: “Lễ, nhạc không đủ uốn nắn mà phải dùng hình pháp để đưa con người về chính đạo”. Ngày nay, nhân loại đã dung hòa, dùng kết hợp cả hai học thuyết trên: Vừa dùng pháp luật để răn đe, vừa tăng cường giáo dục để con người có tâm làm điều thiện, nhân nghĩa, làm tốt phận sự của mình ở mọi lúc, mọi nơi, kể cả những nơi mà pháp luật không thể hiện diện để điều chỉnh. <br />Chúng ta cần hiểu rõ pháp luật và hiểu được sự giới hạn của pháp luật để từ đó sử dụng tốt công cụ pháp luật trong việc xây dựng xã hội mới. Coi thường hoặc thần thánh hóa công cụ pháp luật đều là sai lầm. Lãng mạn pháp luật là sự tập hợp những câu chuyện nằm ngoài pháp luật, có phần hư cấu bay bổng, được viết và biên soạn dựa trên các câu chuyện cổ chứa đựng rất ít hiện thực sẽ phần nào giúp cho bạn đọc hiểu được sự giới hạn của pháp luật và rút ra cho mình những bài học bổ ích. Ít nhất, “Lãng mạn pháp luật” cũng giúp các bạn có những chuyện vui giải trí trong lúc “trà dư tửu hậu”.<br />Qua mỗi câu chuyện, có nhiều quan điểm khác nhau. Lời bàn của tôi chỉ là một trong vô số quan điểm đó. Tôi mạnh dạn đưa ra quan điểm cá nhân của mình qua mỗi lời bàn sau từng câu chuyện, vì tin rằng bạn đọc sẽ cảm thông được cho tôi trên tinh thần dân chủ: “Tôi không đồng ý với quan điểm của anh nhưng tôi thề rằng bảo vệ đến chết cho anh được cái quyền phát biểu quan điểm ấy” (Jean Jacques Rousseau). Một số câu chuyện tôi để ngỏ lời bàn cho bạn đọc.<br />Mặc dù hết sức cố gắng nhưng thiếu sót là không tránh khỏi. Tôi mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.</p><br /> <p align="justify"><br /></p></div></td></tr></tbody></table>
Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Quảng cáo
Offline congtu_dangyeu259  
#2 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:27:37(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Làm sao cởi được cái quần của ngươi?

Thị Đào vốn là người lẳng lơ nhưng lại hay vu oan giá họa cho các anh chàng hay léng phéng hảo ngọt, nhằm làm áp lực moi tiền của họ. Nếu không cho tiền mụ thì mụ thưa lên quan rằng mụ bị hiếp dâm, trước hết là cho bỏ ghét, sau nữa là kiếm tiền bồi thường danh dự. Gần nhà mụ có chàng Ất hiền lành, đã 30 tuổi mà chưa lấy vợ. Cha mẹ Ất vừa qua đời, để lại cho anh ta toàn bộ gia tài gồm nhiều ruộng đất và một cái túi đựng đầy vàng bạc, châu báu. Pháp luật trị rất nghiêm tội trộm cướp nên nạn trộm cướp không có. Nhờ vậy, đi đâu Ất cũng mang cái túi theo bên mình mà không sợ nguy hiểm. Nhìn túi vàng và gia tài của Ất, Thị Đào thèm lắm, bèn nghĩ kế chiếm đoạt. Mụ đến bàn với quan huyện về tỷ lệ ăn chia, rồi về lu loa lên rằng mụ bị chàng Ất dùng vũ lực để “ấy” mụ, với những bằng chứng giả do mụ dựng lên. Mụ đòi Ất chia bớt gia tài, nếu không sẽ kiện lên quan. Rồi mụ kiện lên quan thật. Quan xử rằng: Ất phạm tội hiếp dâm Thị Đào, làm mất đi cái “đáng giá ngàn vàng của Thị”, làm cho Thị khó kiếm chồng, không có chồng con thì không ai lo cho Thị, đặc biệt lúc ốm đau già yếu. Vì vậy, quan buộc Ất bồi thường cho Thị Đào cả túi vàng mang theo và hai mẫu ruộng.
Thị Đào thắng kiện hớn hở ra về nhận hai mẫu ruộng, còn túi vàng mụ chia phần lớn cho quan, mụ chỉ giữ được gần một nửa.
Ất khóc lóc như đứa trẻ con. Ất kiện lên quan phủ nhưng vì hồ sơ vụ án có đủ chứng cứ mà quan phủ thì không phân biệt đâu là chứng cứ giả, đâu là chứng cứ thật, nên quan phủ y án.
Thấy Ất oan ức, có người tốt bụng hướng dẫn cho chàng kiện lên nhà vua. Bấy giờ, vua là người thông minh, sáng suốt, nổi tiếng về tài xử kiện. Vua cho triệu tập Thị Đào và bắt mang theo cả túi vàng. Túi vàng đã vơi đi hơn nửa. Vua cho đòi quan đã xử án đến. Quan trình lên nhà vua toàn bộ hồ sơ với những chứng cứ đã chuẩn bị sẵn.
Vua cho người đọc to hồ sơ vụ án với những chứng cứ hiếp dâm do Thị Đào cung cấp và đã được quan huyện kiểm tra phân xử, rồi nói:
- Rõ ràng, Ất đã hiếp dâm Thị Đào, có đầy đủ chứng cứ đã được huyện quan kiểm định và phân xử đúng đắn. Nay ta y án và giao túi vàng cho Thị Đào đem về. Phạt bổ sung Ất hai chục roi.
Quân lính dạ rân. Thị Đào hí hửng cầm túi vàng ra về còn chàng Ất thì nằm úp lưng chịu đòn. Nhưng khi quân lính vừa quất Ất hai roi thì nhà vua bỗng nhiên ra lệnh dừng tay. Nhà vua vừa vò đầu, bứt trán tỏ vẻ hối tiếc và nói:
- Ta xử nhầm rồi! Ất bị oan, Ất bị oan!
Thế rồi nhà vua bảo Ất đuổi theo Thị Đào giật lại túi vàng. Vừa bị oan ức, vừa tiếc của nên Ất chạy nhanh ra cổng thì bắt gặp Thị Đào. Ất dùng hết sức mình để lấy lại cho kỳ được túi vàng từ tay Thị Đào nhưng không tài nào giành được. Thị Đào ôm chặt túi vàng và đẩy Ất ngã lăn. Ất lại xông vào giành giựt quyết liệt. Lần nào cũng vậy, Ất đều bị đẩy ngã.
Nhà vua, quần thần và tất cá các quan chứng kiến cảnh giành giật túi vàng. Vua cho quân lính ra cổng giải cả hai vào rồi nói:
- Thị Đào! Túi vàng trên tay ngươi mà nó giật không được, vậy làm sao nó cởi được cái quần của ngươi!?
Thị Đào cứng họng không sao trả lời được, đành khai ra âm mưu cùng với quan huyện chiếm đoạt gia tài của Ất.


Lời bàn:
Giữa kẻ đi kiện và quan xét xử phối hợp cùng nhau thì thắng kiện là cái chắc. Không những thắng kiện mà quan huyện và Thị Đào còn chuẩn bị được những chứng cứ giả, làm cho các cấp xét xử sau là quan phủ không thể nào lật lại được vụ án. Chỉ có cách dùng mẹo như nhà vua thì mới lật lại được vụ án. Dù có trưng ra bao nhiêu bằng chứng với bao nhiêu lý lẽ hay ho thì Thị Đào và quan huyện cũng phải câm họng trước câu hỏi bất ngờ, thông minh của nhà vua. Nhà vua minh oan được cho Ất là nhờ dựa vào sơ hở và tính tham lam của Thị Đào, chứ nếu lúc giằng co túi vàng mà Thị Đào giả vờ tỏ ra yếu đuối thì chắc nhà vua dù có thông minh cũng đành bó tay. Thế mới hay “Mọi sự gian dối đều có chỗ sơ hở.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#3 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:28:01(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Về vụ hối lộ không thành của Phạm Lãi – Tây Thi

Phạm Lãi theo phò vua nước Việt là Câu Tiễn, lập được nhiều công lớn. Sau khi giúp Câu Tiễn đánh thắng Ngô Phù Sai, Phạm Lãi đưa Tây Thi xuôi dòng sông Ngũ Hồ. Sau thời gian phiêu bạt, Phạm Lãi sang sinh sống ở nước Tề và đổi tên họ thành Chu Di Tử Bì. Nhờ tài năng trác việt của mình, Phạm Lãi lại có nhiều thành công trên quê hương mới. Ông nổi tiếng giàu có, đức độ nên vua Tề mời ông làm tướng quốc. Phạm Lãi ngậm ngùi than rằng:
- Ở nhà thì có hàng ngàn lạng vàng, làm quan thì đến công hầu, tướng quốc. Kẻ áo vải được thế là tột bậc rồi, giữ mãi cái tiếng tăm lừng lẫy là không tốt, có ngày mang vạ vào thân.
Thế rồi Phạm Lãi bèn trả ấn tướng quốc, đem tất cả tài sản cho bạn bè, làng xóm, chỉ mang theo những của thật quí, lẻn đi.
Phạm Lãi dừng lại ở đất Đào, cho nơi đó là ở giữa thiên hạ, tiện đường đổi chác, buôn bán để làm giàu. Phạm Lãi bèn tự gọi mình là Đào Chu Công.
Chu Công ở đất Đào sinh người con út. Khi người con út đã lớn, người con trai thứ hai của Chu Công giết một công hầu nước Sở, đang bị giam, chờ ngày xử tử. Chu Công nói:
- Giết người bị chết là đáng rồi! Nhưng ta nghe nói: “con nhà nghìn vàng không chết ở chợ”.
Liền sai người con út sang Sở xem sự việc ra sao.
Chu Công lấy một nghìn lượng vàng bọc vào trong túi quần áo vải thô chở bằng xe bò, định sai người con út đi. Con trai cả của Chu Công cũng cố xin đi. Chu Công không nghe. Người con cả nói:
- Con cả trong nhà là huynh trưởng; đảm nhận coi sóc việc nhà. Nay em có tội, cha chẳng sai con, lại sai em út đi, thế con là đứa con hư! Nhục thế này làm sao con sống được.
Người con cả toan tự sát. Tây Thi nói hộ cho người con cả:
- Nay ông sai thằng út đi thì chưa hẳn dã cứu sống được thằng thứ hai, mà trước tiên giết mất thằng cả! Biết làm thế nào?
Chu Công cực chẳng đã phải sai người con cả đi. Ông viết một phong thư gửi cho người bạn cũ là Trang Sinh và dặn người con cả rằng:
- Khi con đến thì dâng một nghìn lượng vàng vào nhà Trang Sinh, mặc ông ta làm gì thì làm, nhất thiết không được tranh cãi với ông ta trong việc này.
Người con cả khi đi cũng tự mang theo riêng vài trăm nén vàng sang Sở...
Trang Sinh nhà ở kề ngoại thành. Người con cả phải lách lau cỏ mới tới cửa, thấy nhà có vẻ rất nghèo... trong lòng lấy làm nghi hoặc, không tin là Trang Sinh có khả năng cứu mạng. Tuy nhiên, người con cả cũng làm theo lời cha dặn là đưa thư và dâng nghìn lượng vàng.
Trang Sinh nhận thư và nghìn lượng vàng rồi nói:
- Thôi! Anh hãy đi ngay đi! Chớ có ở lại! Dù em anh được tha ra cũng chớ có hỏi tại sao slại được tha.
Người con cả ra rồi, không đến nhà Trang Sinh nữa mà ngầm ở lại, lấy của riêng mang theo đem dâng cho quý nhân có quyền thế ở Sở. Trang Sinh tuy ở một xóm nghèo khổ nhưng cả nước đều nghe tiếng ông thanh liêm chính trực. Từ vua Sở trở xuống đều tôn ông làm bậy thầy. Khi Chu Công đưa vàng đến, không phải ông có ý muốn nhận. Ý ông ta chỉ muốn giữ lại để cho cha con Đào Chu Công yên tâm là ông đã nhận giúp đỡ, để người con cả khỏi chạy chọt chỗ khác gây náo động làm cho sự việc khó giải quyết. Trang Sinh định khi xong việc sẽ đưa trả đủ lại số vàng ấy cho Chu Công. Cho nên khi vàng đưa đến, Trang Sinh bảo vợ:
- Đây là vàng của ông Chu. Nhỡ tôi không sống được cách đêm thì thế nào bà cũng đưa trả hộ cho tôi, chớ có đụng đến vàng ấy.
Nhưng con cả của Chu Công không biết ý Trang Sinh, lại còn cho rằng ông ta không có thế lực gì.
Trang Sinh thong thả ra mắt vua Sở, nói:
- Có ngôi sao... mỗ, đóng ở chỗ... mỗ, cái đó hại cho nước Sở...
Vua Sở vốn mê tín và tin Trang Sinh, liền hỏi:
- Giờ biết làm thế nào?
Trang Sinh nói:
- Chỉ có cách dùng đức mới trị được nó.
- Thầy về nghỉ! Quả nhân sẽ làm theo.
Nhà vua liền sai sứ giả niêm phong ba kho tiền.
Quý nhân nước Sở kinh ngạc liền về bảo người con cả Đào Chu Công:
- Nhà vua sấp đại xá.
Người con cả Chu Công hỏi:
- Làm sao biết?
- Mỗi lần nhà vua sắp đại xá thường cho niêm phong ba kho tiền. Chiều qua nhà vua đã sai sứ đi niêm phong.
Người con cả Chu Công nghĩ rằng: nếu đại xá thì em mình thế nào cũng được tha. Anh ta tiếc nghìn vàng đem cho lão Trang Sinh, thế là mất toi, bèn lại ra mắt Trang Sinh. Trang Sinh giật mình hỏi:
- Anh chưa về ư?
Người con trưởng nói:
- Thưa vẫn chưa ạ! Trước kia vì việc thằng em, nay thằng em may mắn được hưởng lệnh đại xá, cho nên lại đây chào cụ để về.
Trang Sinh biết ý anh ta muốn lấy lại vàng, liền nói:
- Anh vào nhà trong lấy vàng.
Người con trưởng tự vào nhà lấy vàng ra. Trang Sinh xấu hổ vì bị đứa trẻ con mua chuộc, bèn vào yết kiến vua Sở nói:
- Tôi trước kia có nói về ngôi sao... mỗ. Nhà vua nói sẽ sửa đức để bổ cứu. Nay tôi ra đường, đâu đâu cũng thấy đồn rằng: Đứa con nhà giàu ở Đào là Chu Công, giết người bị giam ở Sở, nhà nó đem nhiều vàng bạc đút lót cho các quan hầu nhà vua. Nhà vua không phải vì thương dân nước Sở mà xá đâu, chỉ vì chuyện con Chu Công đó thôi.
Vua Sở cả giận nói:
- Quả nhân tuy có kém đức thật, nhưng lẽ nào lại vì có con Chu Công mà ra ơn.
Vua Sở liền làm án giết con Chu Công trước rồi hôm sau mới ra lệnh đại xá.
Con cả Chu Công rốt cuộc đưa xác em về quê nhà làm tang...
Tây Thi va người làng đều lấy làm thương xót. Chỉ có Chu Công cười một mình mà rằng:
- Ta đã biết thế nào nó cũng giết em nó! Không phải nó không thương em nó đâu, nhưng có một điều nó không thể chịu nổi. Nó từ nhỏ đã từng chịu khổ cùng ta, thấy việc làm ăn khó khăn nên bỏ của thì tiếc! Trái lại thằng em út nó đẻ ra đã thấy ta giàu. Đứa út chỉ biết cưỡi xe bền, giong ngựa tốt, theo đuổi cầy cáo, nào biết của cải do đâu mà có, cho nên phung phí tiền một cách dễ dàng, chẳng tiếc rẻ gì. Trước đây sở dĩ ta sai thằng út đi chỉ vì nó biết coi thường tiền bạc đó thôi! Thằng cả thì không biết thế, vì vậy mà giết chết em nó. Lẽ đời là thế, có gì đáng xót. Ta ngày đêm vẫn đợi nó đưa đám tang em nó về.
Tây Thi nói:
- Thiếp đã biết ý chàng. Lâu nay chàng đoán việc như thần. Nhưng thiếp cầu mong lần này chàng đoán... không đúng để trời còn dung được đứa con chúng ta. Vậy mà chàng vẫn đoán đúng. Ôi! Cái suy đoán của chàng...
Nhờ xét đoán đúng người, nhận định đúng sự việc mà Phạm Lãi tránh được tai họa như Văn Chủng. Ba lần đổi chỗ ở là ba lần thành danh.


Lời bàn:
Đáng khen cho Phạm Lãi là kẻ biết người, biết việc. Nhưng chê Phạm Lãi là biết được đường chết, đường sống của con nhưng lại không cứu được con. Xưa nay trong chuyện đút lót mà tiếc tiền thì không làm được. Gặp lúc hoạn nạn, mắc vào vòng lao lý hoặc phải tội chết mà còn đắn đo thì chẳng khác nào kẻ đang bị chết đuối mà lại còn ra giá cho người sắp cứu mình. Như vậy, cái chết là không tránh khỏi.
Ở đây, người con cả không phải sợ mất tiền mà vì cho rằng tiền không đáng mất nên không chịu mất. Anh ta đâu biết rằng pháp luật cũng còn nhiều kẻ hở và biến hóa khôn lường. Để cứu em anh ta, Trang Sinh phải dùng cái thanh liêm, uy tín bấy lâu nay của mình để lừa cho vua Sở đại xá cả thiên hạ. Rõ ràng, phi Trang Sinh thì không ai làm nổi chuyện này. Thế nhưng anh ta nghĩ ngược lại là nhờ đại xá cả thiên hạ mà em anh ta được cứu, nên không đáng tốn tiền cho Trang Sinh. Người con cả thấy Trang Sinh nghèo nên khinh và cho rằng Trang Sinh không có khả năng cứu em anh ta, chứ đâu biết rằng chính nhờ nổi tiếng nghèo, thanh liêm mới cứu được em anh ta. Phạm Lãi không cho người con cả đi là xuất phát từ những nhận định hoàn toàn chính xác. Nhưng tại sao Phạm Lãi không trực tiếp đi để cứu con? Có thể hiểu được là Phạm Lãi không thể đi. Một người giàu có nổi tiếng như Phạm Lãi không thể xuất hiện ở đất Sở lúc này. Chỉ cần Phạm Lãi xuất hiện ở đất Sở thì người ta đồn ầm lên chuyện chạy chọt thì ai còn dám can thiệp cứu giúp con ông ta.
Người con cả đã phạm phải các sai lầm sau đây của người đi đút lót:
- Một là, chạy chọt mà tiếc tiền.
- Hai là, khinh người nghèo, cho rằng người nghèo là người thiếu khả năng; đánh giá không đúng người, đúng việc.
- Ba là, muốn kiểm soát, tìm hiểu phương cách giải quyết việc của người nhận giúp đỡ.
- Bốn là, lấy lại tiền trong lúc chưa xong việc.
Với bốn sai lầm trên, anh ta phải chở xác người em về chôn, chứ không phải vụ việc của em anh ta là vô phương cứu chữa. Khi ấy, anh ta mới hiểu được khả năng của Trang Sinh và sự sai lầm của anh ta. Nhưng than ôi! Trang Sinh vì trách móc kẻ hậu sinh là hành động hẹp hòi. Dù sao thì cũng còn có Đào Chu Công hiểu việc, cớ sao Trang Sinh trách móc kẻ hậu sinh!
Đây là câu chuyện hết sức tuyệt vời về thuật dùng người. Phạm Lãi là nhân vật tiêu biểu cho một trí tuệ lịch lãm, có quan niệm hết sức biện chứng về người và việc. Ông không nuôi định kiến và không cố chấp trong việc đánh giá con người: Tốt hoặc xấu, giỏi hoặc kém là những tiêu chuẩn phải được xét trên hành động trong từng hoàn cảnh cụ thể. Có thể ở hoàn cảnh này, một người thích hợp sẽ có hành động xuất sắc nhưng ở hoàn cảnh khác không thích hợp thì người đó sẽ là kẻ bất tài, làm hỏng việc. Do vậy tùy việc mà bố trí con người. Kẻ ăn xài vong mạng, coi tiền như cỏ rác như đứa em út là kẻ thích hợp cho công việc đút lót, có thể cứu sống người anh. Còn người anh cả chi ly, tiết kiệm, quý trọng tiền bạc quá mức thì không thể làm việc ấy.
Phạm Lãi là nhà chính trị đại tài và là nhà kinh tế tài ba. Tất cả những gì ông làm đều để lại dấu ấn muôn đời. Vụ đưa hối lộ không thành của Phạm Lãi cũng để lại cho chúng ta bài học quý giá.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#4 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:28:43(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Lời biện hộ của Hoạn Thư trước “thẩm phán” Vương Thúy Kiều

1. Tóm tắt vụ án Hoạn Thư
Nguyên Thúc Sinh là chồng của Hoạn Thư, một thương nhân, mở ngôi hàng ở Lâm Truy buôn bán. Thúc Sinh xa nhà, vào chơi chốn lầu xanh gặp Thúy Kiều. Thúc Sinh say mê tài sắc của Thúy Kiều nên cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới Thúy Kiều làm vợ bé. Hoạn Thư hay tin nhưng bỏ ngoài tai và nghiêm cấm tin ấy lộ ra ngoài. Thúy Kiều bàn với Thúc Sinh là phải công khai hóa chuyện làm bé của Thúy Kiều. Thúc Sinh về dàn xếp chuyện gia đình, nhưng khi thấy Hoạn Thư cư xử quá mặn nồng và hình như không biết gì chuyện trăng hoa của mình, nên Thúc Sinh im lặng, không dám hé răng chuyện lập “phòng nhì”. Ở nhà một thời gian, Thúc Sinh trở lại Lâm Truy bằng đường bộ. Hoạn Thư cũng cho tay chân là Ưng, Khuyển và một đám gia nhân đi đường tắt bằng thuyền để đến Lâm Truy trước, bắt cóc Thúy Kiều, đốt nhà bỏ xác người chết vào để tạo hiện trường giả là Thúy Kiều đã chết cháy. Thúc Sinh ngờ Thúy Kiều đã chết cháy nên lập bàn thờ. Còn bọn Ưng, Khuyển bắt Thúy Kiều về giao cho mẹ Hoạn Thư đánh đập, buộc làm nô tỳ, sau đó chuyển giao để hầu hạ trong gia đình Hoạn Thư.
Một thời gian sau, Thúc Sinh trở về nhà. Hoạn Thư bắt Thúy Kiều ra lạy ông chủ Thúc Sinh - chồng mình. Đây là tình huống bất ngờ và nghiệt ngã đối với Thúc Sinh và Thúy Kiều. Thúc Sinh và Thúy Kiều không thể nhận nhau trước mặt Hoạn Thư. Ta hãy hình dung hoàn cảnh và tâm trạng Thúy Kiều lúc vợ chồng Hoạn Thư vui vầy bắt Thúy Kiều đứng hầu:
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt, đến lời,
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi.
Ngoảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã tính bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: - “Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn!”
Sinh càng nát ruột tan hồn
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
...
Nàng đà choáng váng tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Khi vợ chồng Hoạn Thư vào ngủ thì Thúy Kiều phải đứng canh:
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
“Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! ...”
Sau đó, Thúy Kiều được Hoạn Thư cho ra ở Quan Âm Các nằm trong vườn nhà của Hoạn Thư, rồi Thúy Kiều bỏ trốn, mang theo “ Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân”, để làm của hộ thân.
Sau một thời gian lưu lạc qua nhiều đau thương, Thúy Kiều trở thành phu nhân của chủ tướng Từ Hải. Và hôm nay, Thúy Kiều mở phiên tòa để xét xử một số vụ án; trong đó có vụ án quan trọng là vụ Hoạn Thư.


2. Thành phần “hội đồng xét xử”:
- “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều (vừa là chủ tọa phiên tòa, vừa là người bị hại).
- “Hội thẩm”: Từ Hải (chồng Thúy Kiều)


3. Các bị cáo:
a/ Hoạn Thư: Vừa là kẻ chủ mưu, cầm đầu; vừa là người thực hành.
b/ Khuyển, Ưng là đồng phạm vụ án với vai trò là người thực hành, giúp sức một cách đắc lực cho Hoạn Thư.
c/ Một đồng phạm vắng mặt là mẹ của Hoạn Thư. Y vừa là người chủ mưu, vừa là người giúp sức nhưng hôm nay không có mặt tại phiên tòa.


4. “Nhân chứng” có mặt tại phiên tòa:
- Thúc Sinh là chồng của bị cáo Hoạn Thư và nguyên là người sống chung như vợ chồng với Vương Thúy Kiều.
- Mụ quản gia nhà Hoạn Thư.
- Vãi Giác Duyên.


5. Các “bị cáo” bị truy tố về các tội:
“Ghen tuông - ngăn cản chồng có vợ bé, đốt nhà, bắt cóc người, đánh đập làm nhục người khác rất tàn nhẫn”.
Lưu ý về, pháp luật quy định: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, nhưng không dược thay đổi trật tự vợ lớn vợ bé (Ai lớn thì lớn, ai bé thì bé nhưng vợ lớn phải chấp nhận nếu chồng quyết có vợ bé). Vì vậy Hoạn Thư bị truy tố về tội ghen tuông, ngăn cản chồng có vợ bé.
Vụ án của Hoạn Thư là vụ án đã được chính Vương Thúy Kiều chọn làm án điểm, xét duyệt trước với sự căm thù sâu nặng giữa hai người đàn bà “lấy chồng chung”. Vì vậy, Thúy Kiều đã duyệt mức án nặng nhất, việc xét xử chỉ là lấy lệ. Cái chết cầm chắc đang chờ Hoạn Thư.
Ta hãy nghe “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều buộc tội với lời lẽ hăm dọa:
“Vợ chàng quỉ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!”
...
Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoắt trông nàng (Kiều) đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!”.
Và đây là thái độ và lời tự bào chữa của Hoạn Thư:
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu.
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Trước hết, ta thử bàn về thái dộ của bị cáo Hoạn Thư.
Rõ ràng Hoạn Thư không có một chút gì biểu hiện ngoan cố mà còn tỏ ra rất sợ sệt: “Hoạn Thư hồn tạc phách xiêu”. Chính đây là thái độ gây cảm tình và thương xót đối với các quan tòa ở mọi thời đại. Nhưng Hoạn Thư hơn các bị cáo thường tình ở chỗ rất bình tĩnh - sự bình tĩnh đạt đến trình độ Hoạn Thư: “Khấu đầu dưới trướng 1iệu điều kêu ca”. Hoạn Thư đã sợ đến “hồn lạc phách xiêu” mà vẫn làm dược cái chuyện “liệu điều kêu ca” thì thật là “đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan”.
Mặc dù không đề cập gì đến bà “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều, nhưng lý lẽ của Hoạn Thư cao thủ đến mức làm cho Thúy Kiều thấy xử Hoạn Thư là xử chính mình:
“Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
...
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”
Nói vậy là Hoạn Thư đã nói với Thúy Kiều:
- Thấy chưa? Tôi cũng đàn bà như bà “Thẩm phán”, làm sao tôi không ghen được. Máu tôi cũng đỏ cơ mà. Chồng bà là Từ Hải ngồi đó, bà cho ai mượn thử coi?
Vì Thúy Kiều là hạng người biết nghĩ xa “thấy người nằm đó biết sau thế nào” nên lời biện hộ trên là vô cùng giá trị.
Hoạn Thư lại kể công với Thúy Kiều:.
“Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
Nàng có nhớ không, khi nàng lấy trộm Phật tiền trên bàn thờ mang theo làm lộ phí đi đường, tôi không đuổi theo là vì tôi không có ý muốn hại nàng, tôi chỉ muốn giữ chồng cho riêng tôi, chứ tôi nào muốn hại nàng! Tôi cũng có công giúp nàng ra đấy chứ!
Đến đây thì “Thẩm phán” Thúy Kiều đã không còn bắt bẻ vào đâu được nữa. Hoạn Thư đã chứng minh một cách sắc bén là mình không cố ý phạm tội, mà nếu có đó chỉ là “tội tổ tông”, một loại tội do trời đất sinh ra. Nhưng cao thủ thêm một bậc là Hoạn Thư vẫn nhận rằng mình có tội và xin “Thẩm phán” Thúy Kiều tha thứ:
“Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Với thái độ “hồn lạc phách xiêu”, lo sợ nhưng bình tình lạ lùng, lý lẽ sắc bén chứng minh rõ ràng là chỉ phạm “tội tổ tông” - tức là không có tội, nhưng lại nhận tội và xin tha thứ; đã đẩy Thúy Kiều vào tình huống phải tha, mặc dù trước đó đã duyệt án tử:
“Khen cho thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Trước đây Thúy Kiều đã khen Hoạn Thư:
“Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!
Ấy mới gan, ấy mới tài”
Và phong cho Hoạn Thư là “nhà ghen” (máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen) thì nay lại khen “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Thúy Kiều là người “thông minh vốn sẵn tính trời” và “sắc đành đòi một, tài đành họa hai” mà không thể buộc tội nổi họ Hoạn thì rõ là họ Hoạn biện hộ đạt đến trình độ trác việt.
Thúy Kiều có sự sai lầm - một sự sai lầm do sự biện hộ của Hoạn Thư mà ra. Xưa nay, người ta thường trị tội nặng những kẻ chủ mưu, kẻ cầm đầu còn xử nhẹ hoặc tha thứ cho kẻ thừa hành, kẻ giúp sức, kẻ a dua. Thế mà Thúy Kiều lại tha Hoạn Thư là kẻ cầm đầu, chủ mưu, còn bọn Ưng, Khuyển là kẻ thừa hành, giúp sức lại bị xử tử. Chính sự sai lầm của con người tài sắc Thúy Kiều (hay Nguyễn Du?) càng làm nổi bật tài biện hộ của Hoạn Thư.
Hoạn Thư thật xứng với “Vốn dòng họ Hoạn danh gia”. Hoạn Thư đã được Thúy Kiều phong là “Ghen gia”. Nay chúng ta có thể khen thêm là Hoạn Thư xứng đáng dược gọi là “luật gia - trạng sư”.
Thái độ và lời biện hộ của Hoạn Thư trước “Thẩm phán” Vương Thúy Kiều xứng đáng được các bị cáo và giới luật gia, luật sư học tập, coi đó như là thái độ và lời bào chữa mẫu mực.


Lời bàn:
Lời biện hộ của Hoạn Thư chỉ có giá trị đối với các thẩm phán như Thúy Kiều, chứ nếu gặp phải quan ngồi xử mà ngủ gục hoặc tối dạ, tham lam thì họ Hoạn đành nhận cái chết vậy.
Theo luật tố tụng hình sự của ta ngày nay thì Thúy Kiều không được có mặt trong hội đồng xét xử. Thúy Kiều là người bị hại nên không thể khách quan, vô tư khi xét xử.
Việc tha bổng Hoạn Thư gây nhiều tranh cãi và ấm ức trong lòng quần chúng nhân dân. Tha như vậy sẽ làm cho các chị em ghen tuông khoái chí, làm khó cho anh em ta. Đã tha Hoạn Thư thì phải tha Ưng, Khuyển mà bọn Ưng, Khuyển không tha được thì cớ sao tha Hoạn Thư? Nguyễn Du chưa để ý đến nguyên tắc xử lý tội phạm có tổ chức chăng? Kẻ chủ mưu cầm đầu mà tha thì kẻ thừa hành, giúp sức sao lại chết? Hay 1à bọn Ưng, Khuyển chết vì không biết biện hộ.
Hoạn Thư được tha, còn mẹ Hoạn Thư – phu nhân quan Lại Bộ thì không thấy nói đến. Chỉ thấy bọn “lục lục thường tình” bị đầu rơi máu chảy. Phải chăng cụ Nguyễn Du không dám cho Thúy Kiều đụng đến gia đình ông lớn?!

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#5 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:29:11(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Một vụ kiện trời

Một bà lão bán bánh dạo, đội thúng bánh tráng đi dọc bờ sông. Trời bỗng dưng nổi gió, làm bay lả tả bánh tráng xuống sông. Bà dừng lại, sửa lại thúng bánh, thấy thúng bánh vơi đi hơn một nửa. Thế là mất toi cả vốn lẫn công. Bà giận trời, sao hôm nay nổi gió mà không báo hiệu trước như mọi hôm để bà đề phòng. Ngồi nghĩ ngợi một lúc, bà quyết chí đi kiện bắt trời bồi thường hơn nửa thúng bánh cho bà.
Bà lão đưa đơn tới quan, với niềm tin thắng kiện vì bà được nghe đồn về vị quan thông minh, nhân hậu mới nhậm chức ở địa hạt bà đang ở. Bà thưa:
- Bẩm quan lớn nhân từ! Trời hại con bị mất hơn nửa thúng bánh ở chỗ khúc sông sâu. Con không còn vốn liếng để sinh sống. Mong quan trên xem xét, bắt trời đền cho con đủ số bánh đã mất.
Vị quan rất ngạc nhiên hỏi bà lão:
- Trời có lỗi gì? Và làm sao mà quan có thể bắt trời đền bánh cho bà?
- Bẩm quan lớn! Con là kẻ nghèo hèn bán bánh dạo kiếm sống qua ngày. Thường ngày con vẫn đi về qua con đường này. Thỉnh thoảng, có gió nhẹ hoặc nếu có gió mạnh thì trời nổi giông, mây đen báo trước nên con đề phòng, chưa bị bay mất bánh bao giờ. Hôm nay, trời bỗng dưng nổi gió mạnh mà không có dấu hiệu báo trước nên con không đề phòng, gió hôm nay lại thổi ngược mọi hôm, làm cả thúng bánh của con bay xuống sông. Như vậy là trời có lỗi, xin quan lớn xử bắt trời đền bánh đa cho con. Trời không có ở đây thì đã có con trời làm đại diện. Lâu nay nhà vua vẫn thường tự xưng là thiên tử, thay trời cai trị muôn dân, con xin quan lớn xử bắt thiên tử thay trời đền bánh cho con.
Nghe bà cụ trình bày xong, quan đổi từ ngạc nhiên qua khâm phục. Nhìn khuôn mặt phúc hậu và đôi mắt tinh anh của bà cụ, quan nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói:
- Bà hãy đưa ta đến chỗ khúc sông ấy để ta xem lại hiện trường.
Bà lão đưa quan đến chỗ có bánh tráng bị mất, có đám lính theo hầu. Đứng trên bờ nhìn xuống sông, quan thấy có một số thuyền buôn căng buồm chạy qua. Thuyền đi thuận gió nên các tay chèo ngồi nghỉ, cất giọng hát vu vơ. Quan bắt dừng thuyền lại, gọi các chủ thuyền lên hầu kiện để quan xử tiếp. Quan hỏi bọn thuyền buôn:
- Trước khi đi các ngươi có cúng bái gì không?
- Dạ có! Bẩm quan lớn, cúng bái là việc phải làm trước khỉ xuất hành. - bọn thuyền buôn đều đồng thanh đáp.
- Khi cúng, các ngươi vái, cầu khẩn những gì?
- Dạ bẩm quan lớn! Chúng con vái, cầu khẩn xin trời phù trợ đi về thuận buồm xuôi gió, mua mau, bán đắt.
- Thế hôm nay các ngươi đi có thuận gió không?
- Bẩm quan lớn! Hôm nay, trời thuận gió nên chúng con căng buồm rồi nghỉ tay chèo.
Khi cả bọn thuyền buôn còn ngơ ngác và trả lời thành thật các câu hỏi của quan như một cái máy thì quan phán:
- Các người là những người đi buôn. Trước khi đi các ngươi đều sắm lễ vật cúng bái, đút lót cho trời để được “thuận buồm xuôi gió”, đi đến nơi, về đến chốn. Trời vì ăn của đút lót của các ngươi mà nổi gió làm bay bánh tráng của bà lão xuống sông. Vậy ta xử các ngươi có trách nhiệm liên đới bồi thường bánh tráng cho bà lão.
Nghe quan trên lập luận sắc bén, cả bọn không bắt bẻ được chỗ nào đành chung tiền bồi thường thúng bánh đa cho bà lão.


Lời bàn:
Trời nổi gió thì thường có những dấu hiệu báo trước như sấm chớp, mây mù và phải nổi gió tùy mùa để dân biết trước mà đề phòng. Trời mà làm cái kiểu nổi hứng gió bất tử, chẳng nghĩ đến thần dân thì có ngày gặp người như bà lão nọ. Khen cho bà lão dám kiện trời. Lại khen cái lý lẽ của bà thật chặt chẽ, làm vị quan thông minh phải khâm phục. Quan thì không dám nói động đến vua, làm sao xét xử bắt vua đền nhưng vị quan cũng giỏi tìm ra cái lý để đền bánh đa cho bà lão. Xem thế đủ biết việc xét xử có thể biến hóa và linh hoạt biết dường nào.
Trời nổi gió không báo trước còn bị kiện. Thế mà người nắm chức quyền nay cho sửa cái này, mai ban hành đổi cái nọ, làm thiệt hại cho biết bao người dân nhưng chưa thấy ai dám kiện như bà lão nọ. Không biết, trong dân không có người thông minh như bà lão nọ hay trong quan hết người biết nghe và phân xử như vị quan nọ.
Tội nghiệp thay cho các anh thuyền buôn, vì mê tín, vô tình cúng bái mà chịu hậu quả. Trước miệng lưỡi nhà quan, cái không lý đã phải nghe, huống gì có lý, như vụ kiện này thì tránh sao được sự đền bồi. Xử được như vị quan trên thì nghĩ cũng nên nghe để mà học. Trời làm lỗi thì cuối cùng vẫn là dân chịu thiệt. Bà lão bán bánh đa không chịu thiệt thì các nhà buôn đền. Nếu không xử được cái nhà buôn thì tất phải tìm đâu đó cho ra người chịu chứ vô lẽ xử vua chịu.
Đây là vụ kiện và phân xử hoàn toàn dựa theo lý: Tìm ra lỗi, xác định người có lỗi, người kế thừa, người liên đới trách nhiệm, rồi từ đó bắt bồi thường. Sự suy luận như trên là hợp với nguyên tắc pháp luật hiện nay. Trời không có ở thế gian thì con trời phải kế thừa nghĩa vụ bồi thường cho bà lão. Trời và bọn thuyền buôn có lỗi gây thiệt hại cho bà lão thì phải bồi thường. Không có trời ở đây thì bọn thuyền buôn có trách nhiệm liên đới phải bồi thường.
Ngày nay, không thể suy luận như xưa để xử vụ án này vì hai lý do:
- Một là, không có thiên tử nên bà lão không thể kiện (không có vua).
- Hai là, không chấp nhận mối liên quan giữa cúng bái của bọn thuyền buôn và sự thuận gió của trời nên không thể bắt bọn buôn đền. Cúng bái như vậy là chuyện mê tín dị đoan.

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#6 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:29:56(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Đứa con của mẹ nào?

Có hai người phụ nữ tranh chấp một đứa con. Họ đưa nhau đến nhờ quan phân xử, nhưng nhìn họ và đứa bé, các quan không thể nào đoán biết hoặc kết luận được đứa bé là con của người nào; vì cả hai người đều đưa ra các chứng cứ chứng tỏ họ là mẹ của đứa bé. Cuối cùng, vụ kiện được chuyển lên nhà vua.
Vua cho đòi hai người mẹ và đứa trẻ đến hầu. Sau khi nghe hai người phụ nữ trình bày, nhà vua nghĩ ngợi một lát rồi phán:
-Ta chịu, không thể nào biết đứa bé này là con của ai. Vậy ta kết luận đứa bé là con của cả hai ngươi. Lính đâu! Đem chặt đứa bé này ra làm hai để chia cho hai người mẹ của nó, mỗi người một nửa.
Quân lính vâng dạ, lôi đứa bé đi để thi hành lệnh vua, thì một người phụ nữ mặt anh biến sắc, vội quì xuống thưa:
- Bẩm vua, con không phải là mẹ đứa bé, con không dám tranh giành đứa bé nữa và xin chịu tội khai báo gian dối, nhận con bừa bãi.
Còn người phụ nữ kia vẫn thản nhiên tự tại, nét mặt không có gì thay đổi. Nhà vua cho quân lính dừng tay rồi phán xử:
- Giao đứa bé cho người mẹ đang quỳ kia. Bà ta chính là mẹ đứa bé.
Sau khi người mẹ nhận con đi khỏi, vua cho lính tra hỏi người phụ nữ còn lại. Quả nhiên, bà ta không phải là mẹ đứa bé. Vua đã tìm ra được người mẹ đích thực của đứa bé bằng một mẹo nhỏ.


Lời bàn:
Nhà vua đã suy đoán và xử theo tình. Người mẹ luôn luôn có tình thương yêu vô bờ bến đối với con. Trước cái chết của đứa con, tất nhiên người mẹ xúc động, sợ hãi. Họ sẵn sàng từ bỏ quyền làm mẹ để cho con được sống. Chỉ có người không phải là mẹ mới thản nhiên trước cái chết của “con”.
Có lẽ, không riêng câu chuyện trên đây mà nhiều chuyện khúc mắc khác có thể được tìm hiểu và xử theo suy luận của cái tình người.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#7 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:37:22(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Hũ vàng của ai?

Một người kia có mua của người láng giềng một miếng đất. Bữa đó nhằm ngày chót của “thời hoàng kim” và đến sáng hôm sau, sẽ chuyển qua “thời hắc ám”.
Mua miếng đất xong, anh bèn đào đất ngay để dựng cột nhà, thì lại đào trúng một hũ vàng. Anh bèn lật đật chạy qua nhà người láng giềng, chủ cũ miếng đất, cho hay:
- Tôi vừa đào trên miếng đất mà tôi mua của anh, tôi gặp một hũ vàng. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng, vậy xin trả hũ vàng lại anh!
Người kia nói:
- Tôi mừng giùm cho anh đó. Khi tôi bán cho anh miếng đất là tôi đã bán tất cả những gì có trên mảnh đất ấy. Vậy hũ vàng đó là của anh, tôi không có quyền nhận nó.
Hai bên cứ nhường nhau mãi đến khi trời sắp tối mà chẳng ai chịu nhận hũ vàng. Hai bên đều nghĩ rằng cũng nên để qua ngày hôm sau cho đôi bên suy nghĩ lại chín chắn rồi hẵng hay. Đêm đó, đâu dè lại là lúc chuyển sang “thời hắc ám”: ngọn gió vật chất và tư lợi thổi tràn khắp mặt đất, tâm hồn đạo đức của hai bên đều bị ảnh hưởng hắc ám mà không hay.
Sáng đến hai người lại gặp nhau như lời hẹn hôm qua.
Người mua đất liền nói:
- Tôi đã suy xét kỹ lại, thì quả lời nói của anh ngày hôm qua thật xác đáng. Tôi đã mua đất anh thì tất nhiên những gì có trong đất là của tôi.
Người láng giềng nói:
- Không phải vậy. Hôm nay tôi đã xét kỹ lại, thì lời nói của anh hôm qua là đúng. Anh không thể nào mua món đồ mà chính anh không cố ý mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua hũ vàng. Anh trả lại cho tôi, rất đúng.
Hai người cãi nhau, không ai chịu nhường cho ai hũ vàng cả. Họ trở thành thù địch, lôi nhau ra tòa, dùng đủ biện pháp và thủ tục để thắng kiện cho kỳ được, bên nào cũng chắc chắn là mình giữ phần phải, và đều vì công lý mà tranh đấu.
Cuối cùng vụ việc cũng phải đưa đến vị quan để phân xử. Quan phán:
- Hũ vàng thuộc tài sản quốc gia, vậy thu hồi sung công quỹ. Ai có công đào bới, phát hiện sẽ được Nhà nước khen thưởng. Các ngươi về làm đơn xin khen thưởng, đem nộp để quan xét.
Hai người trở về viết đơn đem nộp quan rồi ngồi chờ từ năm này qua năm khác mà không thấy quan gọi. Năm năm sau họ lại cùng nhau phát hiện một hũ vàng khác, ở chỗ ranh giới chung của hai mảnh vườn nhưng không thấy họ kiện lên quan nữa. Trời đất đã chuyển “thời hắc ám” thành “thời khôn ra”.


Lời bàn:
Lúc hai người nhường nhịn nhau thì ai cũng tìm ra cái lý để nhường nhịn. Lúc giành nhau hũ vàng thì ai cũng tìm ra cái lý để giành nhau. Thế mới biết cái lý để tranh luận là vô cùng, chưa biết cái lý nào là cái lý đáng được chấp nhận. Do vậy, con người cần sử dụng pháp luật để áp đặt một cái lý duy nhất cho hai cái lý trên. Nhưng than ôi! Còn có cái lý thứ ba là cái lý sung công mà hai kẻ kia chưa biết. Khi biết thì họ “khôn ra” không còn dám nhờ đến pháp luật nữa.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#8 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:37:33(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Về vụ xử tử không thành của người da đỏ

Ất đi chu du thiên hạ, chẳng may lọt vào một vùng cấm kỵ của dân da đỏ. Ngay chỗ linh thiêng của bộ lạc, Ất làm một “bãi quận công”. Luật tục của bộ lạc rất nghiêm khắc. Bất cứ ai làm dơ bẩn vùng cấm kỵ linh thiêng ấy đều bị xử tử. Ất bị bọn lính canh bắt quả tang lúc chưa xong chuyện ấy, hết đường chối cãi.
Bọn lính giải Ất đến gặp vị Tù trướng. Sau khi nghe bọn lính trình bày sự việc, vị Tù trưởng phán:
- Trước khi chết, ta cho ngươi phát biểu một câu để ghi vào sổ lưu của bộ lạc ta. Nếu câu do ngươi nói ra là câu đúng thì ta cho ngươi chết treo, nếu câu nói của ngươi là câu sai thì ta cho ngươi chết chìm.
Ất run sợ trước cái chết nhưng rồi chàng cũng bình tĩnh đón nhận. Chàng nghĩ rằng chết treo hay chết chìm cũng là chết nhưng phải chọn cái chết nào nhanh và dễ chịu hơn. Suy nghĩ một lát, rồi chàng nói:
- Tôi sẽ chết chìm!
Tù trưởng sai lính ghi tên họ và câu nói ấy của Ất vào sổ lưu của bộ lạc, rồi sai lính thực thi mệnh lệnh như đã hứa với Ất. Nhưng khi bọn lính giải Ất ra dìm nước thì bỗng dưng có người lính kêu lên:
- Khoan! Cho nó chết chìm là nó đã nói đúng hình thức chết của nó. Mà Tù trưởng ta đã hứa là nếu nó nói câu đúng thì cho chết treo. Ta phải đem treo cổ nó để giữ lời hứa của Tù trưởng ta.
Khi bọn lính dong Ất đến giá treo cổ thì một người lính khác lại kêu lên:
- Khoan! Cho nó chết treo thì câu nói của nó là câu sai. Mà Tù trưởng ta đã hứa với nó là nếu nó nói câu sai thì cho nó chết chìm. Vậy ta phải cho nó chết chìm để giữ lời hứa cho tù trưởng ta.
Cứ thế bọn lính lại giải Ất đến chỗ vực sâu, rồi lại giải về chỗ treo cổ. Vì phải giữ lời hứa cho Tù trưởng nên bọn chúng không sao thi hành dược.
Quanh đi, quẩn lại không biết xử trí thế nào, bọn lính đành giải Ất về yết kiến Tù trưởng trình bày sự việc. Vị Tù trưởng không thể vi phạm lời hứa nên đành tha Ất. Khi trở lại quê nhà, Ất kể cho họ hàng, bè bạn nghe câu chuyện mà chàng đã gặp phải trên đường chu du. Ai cũng khen chàng thông minh nhưng cũng khen dân da đỏ biết phép suy luận và tôn trọng lời hứa. Từ đó, Ất không dám làm cái việc “sau quận công” trong các chuyến hành trình chu du đây đó nữa.


Lời bàn:
Luật pháp và mệnh lệnh có khi tự mâu thuẫn nhau khiến cho người thi hành, không thi hành được. Đây là câu chuyện hoàn toàn lãng mạn nhưng có giá trị thực tiễn cao. Các nhà làm luật cần thận trọng khi ban hành pháp luật, để không có ngày gặp phải tình huống không sao thi hành được.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#9 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:38:27(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Bà Thủ Khoa Nghĩa minh oan cho chồng

Bùi Hữu Nghĩa sinh ra và lớn lên trong gia đình nghèo làm nghề chài lưới tại làng Long Truyền, Bình Thủy, Cần Thơ. Từ nhỏ ông học giỏi, nổi tiếng là người thông minh hay chữ, song vì quá nghèo nên đành bỏ dở việc học. Trong làng có gia đình họ Ngô mến tài, trọng đức nên đã giúp cho ông lên Biên Hòa học trường thầy đồ Hoành và ở trọ nhà hộ trưởng Nguyễn Văn Lý.
Năm 1835 ông đỗ thủ khoa trường thi Gia Định (nên thường gọi là Thủ Khoa Nghĩa) rồi ra Huế thi Hội nhưng bị rớt. Tuy vậy, ông cũng được bổ vào tập sự ở Bộ Lễ chờ ngày nhậm chức chính thức. Ít lâu sau, ông được bổ nhiệm chính thức chức tri phủ Phước Long (Biên Hòa). Trên đường về quê, ông ghé chào thầy Đồ Hoành nhưng quên không ghé nhà hộ trưởng Nguyễn Văn Lý. Cô Nguyễn Thị Tốn - con gái ông Nguyễn Văn Lý - giận lắm. Khi Tri phủ Phước Long sắp ra khỏi làng, cô Tốn vội chạy theo, rẽ đám tùy tùng níu võng ông Tri phủ lại mà dạy cho bài học về nghĩa thủy chung. Cảm phục cử chỉ khảng khái này, nên sau khi nhậm chức, ông sắm lễ cầu hôn với cô Tốn. Cô Tốn cho đây là hành động của người quân tử nên đã ưng thuận và xin cha mẹ cho theo chàng nâng khăn sửa túi.
Ở Biên Hòa một thời gian, Thủ Khoa Nghĩa được điều đi nhậm chức ở phủ Trà Vang (Trà Vinh), tỉnh Vĩnh Long, tùng sự dưới quyền Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện. Tính tình Thủ Khoa Nghĩa cương trực, không thiên vị luồn cúi ai. Thời gian làm tri phủ Trà Vinh, em vợ quan Bố chánh hỗn xược, ông thẳng tay trừng trị, cho đánh đòn nên quan Bố chánh thù oán rắp tâm hãm hại.
Tương truyền, người Miên đã cứu giúp lương thực cho Nguyễn Ánh trong lúc chống nhau với Tây Sơn, cho nên khi lên ngôi, nhà vua đã xuống chiếu miễn thuế thủy lợi cho dân Miên để đền ơn. Thấy công trình thủy lợi đó quan trọng và thu được nhiều lợi, có một số người Tàu lo lót với Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện để giành lấy độc quyền sử dụng và đắp đập khai thác. Các hương mục Miên kéo nhau đến kiện ở dinh Tri phủ Bùi Hữu Nghĩa. Tri phủ Nghĩa xử rằng: “Việc tha thuế thủy lợi là ơn riêng của vua Thế Tổ ban cho dân Miên, nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà đứng ra bán rạch ấy thì có chém đầu cũng không sao!”. Được lời như cởi tấm lòng, dân Miên bèn kéo đến phá đập của người Tàu. Giữa hai bên xảy ra quyết chiến, bên nào cũng có kẻ chết, người bị thương, đặc biệt phía người Tàu bị nhiều thiệt hại về nhân mạng. Nhiều dân Miên bị bắt khai ra lời xử án của Tri phủ Bùi Hữu Nghĩa. Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện vốn có tư thù với ông Nghĩa nên nhân cơ hội này bắt ông Nghĩa giải về Gia Định rồi đệ sớ lên triều đình tâu buộc ông Nghĩa vào tội xúi giết người và làm loạn, ý muốn nói vì ông Nghĩa nên mới có đánh nhau gây án mạng.
Đứng trước oan ức của chồng, bà Thủ Khoa Nghĩa quyết lặn lội ra Huế kêu oan.
Bấy giờ, Phan Thanh Giản đang làm Thượng thư Bộ Lại. Bà Thủ Khoa Nghĩa tìm đến tư dinh cụ Phan Thanh Giản để trình bày sự lộng quyền của các quan Vĩnh Long, rồi đến Tam Pháp Ty khua ba hồi trống “kích cổ đăng văn” (Tam Pháp Ty gồm có nhân viên cao cấp của Bộ Hình, Đô Sát viện và Đại lý tự họp xử bất thường đối với những vụ đặc biệt, có người đánh trống kêu oan).
Bà Thủ Khoa vừa khua trống thì một thầy đội chạy đến thu tờ trạng đem vào cho viên quan trực trong Nội. Ông này dâng lên vua. Vua giao cho Tam Pháp Ty nghị án rồi chính vua chung thẩm như sau:
“Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải quân tiền hiệu lực, lập công chuộc tội”.
Bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, nghe tin này lấy làm cảm thương cho người liệt phụ đồng hương, bèn cho mời vào, ban cho tấm biển chạm bốn chữ vàng: “Liệt phụ khả gia”. Cứu được chồng, bà Thủ Khoa Nghĩa từ giã kinh đô, thẳng đường về quê hương ở tỉnh Biên Hòa.
Khi bà mất, ông Nghĩa đang xung quân ở vùng Châu Đốc, nghe tin vội xin về, nhưng tới nhà thì mọi sự ma chay đã xong. Vô cùng thương tiếc, ông làm một bài văn tế và đốt bên mộ vợ. Bài văn có những câu thống thiết:
“Nơi kinh quốc mấy hồi trống gióng, biện bạch này oan, nọ ức, đấng hiền lương mắt mắt thảy đau lòng. Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hòi lẽ chánh, lời nghiêm, lũ băng đảng tai nghe đều mất vía.”
Ông Nghĩa còn có đôi liễn thờ vợ bằng chữ Hán:
“Ngã bần, khanh năng trợ, ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ.
Khanh bệnh, ngã bất dược, khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.
Nghĩa là:
“Tớ nghèo mình lo giúp, tớ oan mình lo kêu, chòm xóm đều khen mình đáng vợ.
Mình đau tớ chẳng nuôi, mình chết tớ chẳng táng, non sông thẹn phận tớ làm chồng”.


Lời bàn:
Ngày xưa, dân rất sợ quan. Thế mà một cô gái quê dám níu võng ông Tri phủ để dạy đạo làm người - sự thủy chung - thật đáng ca ngợi biết bao. Ông Bùi Hữu Nghĩa biết nhận lỗi và chọn cô Tốn làm vợ thì quả là sáng suốt, đáng khen. Ông chọn được vợ hiền, bản lĩnh nên nhờ đó mà về sau thoát nạn.
Bà Tốn dám níu võng quan phủ để dạy cho bài học thì tất nhiên bà cũng dám lặn lội ra Huế gióng trống kêu oan cho chồng, không lấy gì làm ngạc nhiên. Nhưng ngạc nhiên ở chỗ: Sao mà cái trống của Tam Pháp Ty dễ đến đánh quá vậy? Nếu bây giờ mà có cái trống từa tựa như trống ấy thì sẽ có bao nhiêu là... lãng mạn.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#10 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:39:10(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Tây Môn Báo xử tội bọng đồng cốt: “Hà Bá lấy vợ”

Tây Môn Báo người nước Ngụy, sống vào thời Chiến quốc, nổi tiếng xử án rất thẳng, được Ngụy Văn Hầu tin dùng, cho làm thái thú, ra trấn giữ Nghiệp Đô. Khi mới đến Nghiệp Đô, trông thấy phong cảnh tiêu điều, dân cư thưa thớt, Tây Môn Báo liền triệu các phụ lão đến để hỏi. Các phụ lão đều nói:
- Dân chúng tôi đều khổ về một nỗi, Hà Bá lấy vợ!
Tây Môn Báo nói:
- Quái lạ! Hà Bá lấy vợ thế nào? Các ngươi nói rõ cho ta nghe.
Các phụ lão nói:
- Sông Chương Thủy phát nguyên từ Cô Lĩnh, chảy qua Sa Thành, chảy đến đất Nghiệp Đô này, gọi là sông Chương Hà. Hà Bá tức là thần con sông ấy. Thần thích vợ đẹp, mỗi năm bắt dân phải nộp một người. Chịu nộp thì mưa thuận gió hòa, hoa màu tươi tốt nếu không thì thần phạt, dâng nước lên làm hại cửa nhà.
Tây Môn Báo hỏi:
- Ai xướng thủy ra việc ấy?
Các phụ lão nói:
- Bọn đồng cốt ở ấp tôi xướng thủy ra việc ấy. Dân chúng tôi sợ cái hại nước lụt, vậy phải thuận theo. Mỗi năm, các hào trưởng trong làng cùng bọn đồng cốt bổ cho dân phải nộp mấy trăm vạn quan tiền, dùng một phần làm phí tổn cho Hà Bá lấy vợ, còn thì chia nhau.
Tây Môn Báo hỏi:
- Chúng nó chia nhau mà dân lại không nói câu gì hay sao?
Các phụ lão nói:
- Bọn đồng cốt để giữ được việc cầu cúng, còn các hào trưởng trong làng có cái công thu bổ thì họ cũng phải ăn vào đấy, chúng tôi đâu dám phàn nàn! Nhưng có một điều rất khổ là cứ về đầu năm, bọn đồng cốt thấy con gái nhà ai có nhan sắc thì bảo người con gái ấy đáng làm vợ Hà Bá, có chịu lễ nhiều tiền thì họ mới tha, lại bắt người khác. Kẻ nào nhà nghèo, không có tiền lễ thì phải nộp con gái. Bọn đồng cốt lập một cái nhà trai cung ở bờ sông, màn che trướng phủ, toàn đồ mới cả; bắt đứa con gái ấy tắm gội thay áo rồi cho ở đấy, chọn được ngày tốt, đem người con gái ấy để ngồi vào cái thuyền cỏ, thả ra giữa dòng sông, đi được dộ vài mươi dặm thì tự khắc chìm mất. Dân chúng tôi khổ về những sự phiền lụy ấy, cũng có người thương con gái quá, không muốn nộp cho Hà Bá thì đem con trốn di, vì thế mà trong thành mỗi ngày một vắng vẻ.
Tây Môn Báo lại hỏi:
- Ấp các ngươi đã bị lụt bao giờ chưa?
Các phụ lão nói:
- Năm nào dân chúng tôi cũng chịu nộp con gái, vậy nên thần không trách phạt bao giờ? Nhưng ấp chúng tôi đất cao, đường xa, nước sông khó vận tới được, dầu chẳng bị lụt mà thỉnh thoảng lại phải tiêu khô cũng hại lắm thay!
Tây Môn Báo nói:
- Thần đã thiêng như vậy thì để hôm nào nộp con gái, ta cũng đến, rồi ta sẽ cầu đảo cho các ngươi.
Khi tới kỳ, các phụ lão đến bẩm. Tây Môn Báo đội mũ, mặc áo nghiêm chỉnh thân hành ra đứng ở bờ sông. Phàm những quan thuộc trong ấp, tam lão và các hào trưởng lý dịch đều đến đông đủ. Dân kéo ra xem, kể hàng nghìn người. Bọn tam lão và hào trưởng đưa một bà già đồng ra, trông mặt có ý kiêu ngạo. Các đệ tử hơn hai mươi người, khăn áo sặc sỡ, đều xách lẵng hương đi theo sau. Tây Môn Báo bảo bà đồng già ấy rằng:
- Dám phiền nhà ngươi gọi vợ Hà Bá ra đây cho ta xem mặt.
Bà đồng sai đệ tử gọi đến. Tây Môn Báo trông thấy nhan sắc tầm thường, liền bảo bà đồng và bọn tam lão rằng:
- Hà Bá là một bậc quý thần, phải tìm người con gái rất đẹp thì mới xứng đáng. Người này không được. Ta phiền nhà ngươi xuống nói với Hà Bá rằng, vâng lời quan thái thú, xin tìm người con gái khác đẹp hơn, hôm sau sẽ nộp.
Tây Môn Báo sai ngay mấy tên lính ôm bà đồng ném xuống sông. Mọi người chung quanh, ai cũng kinh sợ mất vía. Tây Môn Báo cứ ngồi yên để đợi.
Được hồi lâu, Tây Môn Báo nói:
- Bà đồng tuổi đã già, không được việc, xuống sông bấy lâu mà chưa thấy về trả lời. Các đệ tử nên đi giục hộ bà ta.
Tây Môn Báo lại sai đệ tử nọ nắm người đệ tử kia mà thảy xuống sông. Được ít lâu, Tây Môn Báo lại nói:
- Đệ tử đi mãi chưa về.
Nói xong lại sai một đệ tử khác đi giục. Tây Môn Báo lại chê là chậm, lại bắt người nữa đi. Cả thảy ba đệ tử nhảy xuống sông, đều không thấy trở về. Tây Môn Báo nói với tam lão rằng:
- Bọn ấy là dàn bà nói năng không rõ, phiền tam lão xuống nói hộ để cho được minh bạch.
Tam lão từ chối, Tây Môn Báo quát to lên rằng:
- Đi mau! Thế nào về trả lời cho ta biết.
Quân lính lôi ngay tam lão, đẩy xuống dưới sông, không cho nói năng gì nữa. Người xem chung quanh ai cũng khiếp sợ. Tây Môn Báo vẫn chắp tay đứng ở bờ sông đợi, trông rất nghiêm và thành kính.
Chờ một hồi lâu nữa, Tây Môn Báo lại nói:
- Tam lão già cả, cũng chẳng nên việc, lại phải phiền đến các hào trưởng mới được.
Bọn hào trưởng mặt như chàm đổ, dường dế run, đều sụp lạy kêu van không dám ngẩng cổ dậy.
Tây Môn Báo nói:
- Hãy đợi một lúc nữa.
Mọi người đều run sợ. Lại quá một khắc nữa, Tây Môn Báo lại nói:
- Nước sông chảy cuồn cuộn, nào thấy Hà Bá ở đâu! Chúng bay làm hại bao nhiêu người con gái ở đất này, cái tội ấy chúng bay phải đền mạng!
Bọn hào trướng sụp lạy kêu rằng:
- Xưa nay chúng tôi vẫn bị đám đồng cốt lừa dối, chứ không phải tội chúng tôi.
Tây Môn Báo nói:
- Bà đồng đã chết rồi, từ nay về sau nếu có ai còn nói đến việc Hà Bá lấy vợ nữa thì bắt ngay người ấy làm mối, xuống nói với Hà Bá. Còn bọn hào trưởng kia thu bao nhiêu tiền của dân thì bây giờ phải đem trả lại hết.
Tây Môn Báo lại truyền cho phụ lão chọn những trai lành, người nào lớn tuổi mà chưa có vợ thì đem nữ đệ tử gả cho. Từ bấy giờ mất hẳn thói đồng cốt.
Những dân đi trốn khi trước, lại đem nhau về cả. Tây Môn Báo lại xem địa thế, cho dân đào 12 cái ngòi thông với sông Chương Thủy cho thế nước rút bớt đi. Các khoảnh ruộng ở giữa, có nước tránh khỏi cái nạn tiêu khô, lúa tốt lắm, làng mạc trù phú, nhân dân no đủ vui vẻ.


Lời bàn:
Làm quan mà nổi tiếng xử án rất thẳng như Tây Môn Báo là hiếm có xưa nay. Nhưng làm án tài giỏi ở chỗ: Không những trị tội được bọn đồng cốt, bọn cường hào ác bá vơ vét, làm hại dân lành mà còn dẹp được vĩnh viễn cái nạn mê tín dị đoan - nguồn gốc phát sinh tội phạm - thì xưa nay hiếm. Cái lý lẽ và khung cảnh xử án do Tây Môn Báo bày ra, buộc bọn đồng cốt phải chết mà không cãi vào đâu được. Bọn đồng cốt dùng mê tín để kiếm ăn, hại người thì nay bọn chúng phải chết vì chính cái lệ mê tín do chúng đặt ra là đáng lắm thay!
Bọn đồng bóng và chức sắc chẳng qua chỉ kiếm ăn mà đặt ra lễ lạt này nọ, nhưng chúng lại dựa vào tình trạng dân trí thấp kém, cả sợ và dễ tin quàng xiên để đẩy họ vào chỗ chết oan uổng. Rõ ràng bọn hào lý và đồng cốt kia thật tàn nhẫn.
Hiện nay, các trò mê tín dị đoan đang phục hồi và phát triển, khiến một số người cả tin đến mức chết oan. Xã hội ta cần nhiều người như Tây Môn Báo để trừ hại giúp dân.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#11 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:41:40(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Vụ thả tử tù của Tô Ký

Tô Ký là một vị quan võ, thông minh, tài trí và có lòng nhân đạo, liêm chính, cần mẫn, được vua Túc Tôn nhà Đường trọng dụng. Sau khi dẹp loạn An Lộc Sơn, số người bị bắt giam có đến hàng trăm ngàn người. Nhà vua liền cử Tô Ký đến Lư Châu, một trấn quan trọng có nhiều hình án để thanh tra xem xét lại. Trước khi Tô Ký đi, vua Túc Tôn có lời dụ: “Nhân dân đều là con đỏ của triều đình, vì đói rét hoặc vì ngu dốt hoặc vì cưỡng ép mà phạm tội, trẫm lấy làm thương xót, vậy trừ những kẻ cùng hung cực ác ra, còn thì nên khoan thứ, khiến cho chúng có dịp sửa mình, ăn năn hối cải”. Tô Ký vâng lệnh lạy tạ vua rồi lui về sửa soạn lên đường.
Tới Lư Châu, Tô Ký từ chối tất cả những cuộc chiêu đãi tiệc tùng, mua chuộc của các quan, dân địa phương. Tô Ký bắt tay vào xét ngay các việc hình án.
Sau một tháng xem lại hồ sơ của hơn một ngàn tù nhân tại nhà giam ở Lư Châu và cân nhắc; Tô Ký thả cho về gần tám trăm người, chỉ giữ lại hơn hai trăm người bị khép vào án tử. Sau đó, Tô Ký lại xem xét kỹ một lần nữa và cho giảm hơn một trăm án tử thành án đi đày, số còn lại đều là những kẻ gian ác có bằng chứng rõ ràng, phải y án xử tử, chỉ chờ ngày hành quyết.
Gặp ngày 30 tết, cả nhà Tô Ký sum họp, chuyện trò vui vầy. Đang uống rượu vui, bỗng một ý nghĩ thoáng qua, làm cho Tô Ký dừng chén lại và tỏ ý không vui. Bà mẹ lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì. Tô Ký cung kính bẩm lại với mẹ:
- Thưa mẹ, người đời ai chẳng muốn được sống trong cảnh đoàn viên sum họp, nhất là ngày Tết, cảnh ấy lại càng nên có. Con được ngồi hầu mẹ và vợ con vui vẻ thế này nên con sực nghĩ đến bọn tử tù kia, đang chịu cảnh gông cùm xiềng xích, đã không mong gì sống, đến cả cánh vui vầy hôm nay ai cũng được hưởng, mà chúng phải khổ sở, nhớ thương cha mẹ vợ con, thật đáng nên thương xót.
Bà mẹ nghe nói xiết bao cảm động, bèn sai quản gia đem các thứ bánh trái chi phát cho các tử tù. Tiệc xong, Tô Ký lên công đường, truyền lệnh cho cai ngục giải tết cả tử tù đến cho quỳ trước mặt. Bọn tù đang chờ ngày hành quyết, nay bỗng có lệnh giải đến trình quan, ngỡ bị đem hành hình nên cả bọn đều sợ xanh mặt. Nhưng khi đến nơi thấy nét mặt Tô Ký hiền hậu vui vẻ thì ai nấy yên lòng. Tô Ký ra lệnh tháo hết xiềng xích gông cùm ở tay chân tử tù rạ, rồi ôn tồn hỏi bọn tù:
- Các người bị giam nơi ngục tối có còn nhớ ngày tháng không?
Mấy tên quỳ ở hàng đầu nói:
- Bẩm quan, chúng tôi cần phải nhớ ngày tháng để xem ngày nào chịu chết đặng nhờ báo vợ con cúng giỗ.
Tô Ký hỏi:
- Thế hôm nay là ngày gì?
Cả bọn đồng thanh nói:
- Hôm nay là ngày trừ tịch hết năm cũ, sang năm mới!
- Vậy các ngươi có muốn về nhà cùng vợ con ăn tết không?
Nghe câu hỏi lạ lùng của một vị quan, cả bọn tù ngơ ngác nhìn nhau, họ nghĩ ràng vị quan ấy dùa cợt, mỉa mai mình nên ai nấy làm thinh. Tô Ký giục:
- Thế nào? Sao các ngươi không trả lời?
Một tên ấp úng nói:
- Bẩm quan! Chúng tôi đây cũng như mọi người, có cha mẹ, vợ con, chỉ vì lâm vào vòng tù tội nên phải dứt tình với những người thân yêu trong gia đình nên bây giờ có muốn hưởng cái diễm phúc sum họp ấy cũng không thể nào được nữa.
Câu nói đó làm cả bọn cảm động ứa nước mắt. Tô Ký nói:
- Nếu các ngươi muốn, ta sẽ cho về ăn tết đủ ba ngày với gia đình, nhưng có giữ lời trở lại đây đúng hẹn không?
Như còn nửa tin nửa ngờ, cả bọn đều ngơ ngác, chưa biết đáp ra sao thì Tô Ký nói:
- Giữ đúng lời hẹn, ta cho về ngay mà!
Cả bọn đồng thanh nói:
- Nếu quan lớn mở lòng trời bể cho chúng tôi được hưởng ba ngày đoàn viên gia đình thì không khác gì chúng tôi được sống thêm mấy chục tuổi nữa, có bao giờ chúng tôi lại phụ lòng đại đức, đại ân của ngài.
Chẳng ngần ngại, Tô Ký truyền thả cả bọn về nhà ăn tết và dặn sáng ngày mồng bốn thì tất cả phải tự đến trại chịu giam lại.
Thấy Tô Ký làm việc lộng quyền và nguy hiểm ấy các thuộc viên đều lấy làm lo sợ, cho rằng bọn tử tù ấy đều là bọn cướp của giết người, nay thả cho ra khác nào thả hổ về rừng. Thật là việc nguy hiểm, chỉ một đứa không trở lại cũng đủ mệt rồi, huống gì gần hai trăm đứa.
Nghe tiếng than phiền lo lắng của thuộc hạ, Tô Ký chỉ mỉm cười không nói gì, nhưng trong lòng cũng hơi lo. Nhưng ông nghĩ ràng không lẽ ông làm một việc thi ân báo đức như vậy mà kẻ thọ ơn nỡ phụ lòng, và ông cũng tin tướng chắc chắn rằng lòng nhân từ của ông được trời phật độ trì.
Hết ba ngày tết, đến sáng mùng bốn, ai nấy đều nôn nao trông đợi xem bọn tử tù có trở lại đủ số không. Cả nha môn mọi người như tỉnh như mê trước cảnh tượng gần hai trăm tử tù, kẻ gần người xa đều tấp nập kéo đến công nha, xếp hàng trật tự, đi vào trước công đường lạy tạ.
Tô Ký cho điểm lại, thấy thiếu mất một người. Tra lại họ tên thì đó là một tên cường đạo. Chờ đến nửa ngày mà chẳng thấy tên này đến, ai nấy đều chắc nó đã cao chạy xa bay rồi và hắn sẽ nhiễu hại lương dân như trước, trừ phi quân lính bắt lại được. Chính Tô Ký cũng lấy làm lo.
Đương lúc mọi người lo lắng thì bỗng một người cao lớn đi vào vùn vụt như bay, cúi đầu nhận tội:
- Bẩm quan lớn, kẻ tiểu nhân này chậm trễ, làm cho quan lớn phải bận lòng. Đó là vì trong lúc đến đây, dọc đường qua một cánh rừng, tiểu nhân thấy một con cọp xám bắt một thiếu nữ cõng chạy. Nghe tiếng kêu khóc của nạn nhân, tôi phải xông vào cứu. Không ngờ lại có một con nữa nhảy chồm ra, một mình tôi phải liều mạng chống với hai ác thú, đến gần nửa ngày mới giết được cả hai. Sau đó tôi còn phải cứu thiếu nữ kia, đưa cô ấy về nhà nên mới đến chậm, xin quan lớn lượng thứ cho.
Tô Ký nhìn ngắm, thấy tên tử tù thật là một tay anh hùng hảo hớn, thân hình vạm vỡ mạnh mẽ khác thường, lại can đảm và nghĩa hiệp như vậy thì trong lòng cảm phục lắm. Ông làm sớ tâu lên vua đầu đuôi sự việc là thả tù cho về ăn tết, tù nhân nào cũng trở về y hẹn, cùng việc đánh cọp cứu người của Lưu Đại Chữ.
Sớ được dâng lên, Vua xem và ban khen rồi chiếu chỉ cho cả bọn tử tù ấy được miễn ở tù, giao họ cho Lưu Đại Chữ tổ chức lập một đội ấp, lo khai hoang trồng trọt, làm ruộng chăn nuôi để gia đình họ sống tự túc Nếu có giặc giã, họ sẽ là đội quân của triều đình, cùng chiến đấu như những đội quân khác.
Từ dó tất cả tử tù trở thành công dân lương thiện và trung thành với ông vua đức độ và quan Tô Ký nhân từ.


Lời bàn:
Thực thi pháp luật như Tô Ký thì thật là lãng mạn. Coi pháp luật như là cái gì bay bổng để mà thử chơi. Tử tù mà bỏ đi cả thì chỉ có cách cười và đưa đầu chịu chết, phiêu lưu với mạng sống của mình như thế thì thật là siêu. Tô Ký vì tử tù nên tử tù cũng vì Tô Ký. Họ đã trở lại đủ để chịu chết chứ quyết không chịu thất tín với quan Tô Ký nhân từ. Vậy họ là những con người trung tín sao lại còn bị mang án tử? Chẳng phải luật pháp đã xử nhầm ư? Khiếm khuyết chỗ nào đó ư?
Pháp luật có khiếm khuyết, nhầm lẫn mà có quan thực thi pháp luật nhân từ, đức độ như Tô Ký thì cũng khắc phục được, đỡ hại dân lành. Nhưng nếu pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu chăng nữa mà không có người thực thi pháp luật nhân từ, liêm chính thì vẫn hại lắm thay. Pháp luật là cái hữu hạn và tĩnh, còn cuộc đời là cái vô hạn và động thì làm sao lấy cái tĩnh và hữu hạn úp vào cái động và vô hạn? Cần quan thực thi pháp luật như Tô Ký là nhằm khắc phục cái dôi ra của cuộc đời.
Bọn tử tù thật xứng đáng được tha! Nhưng cũng nhờ có vua đức độ nên mới tuyển chọn và sử dụng được quan Tô Ký nhân từ nên bọn tử tù kia mới gặp đại phúc. Suy cho cùng thì chính mẹ của Tô Ký mới là nguồn gốc đem lại đại phúc cho bọn tử tù kia.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#12 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:56:11(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Xử kẻ vô ơn

Một người làng chài lương thiện thật thà, làm ăn trên một khúc sông kia. Về mùa lũ, nước sông đổ về cuồn cuộn. Một lần ngồi trên thuyền, anh ta nghe tiếng kêu cứu rất khẩn cấp, vội chèo thuyền tới nơi, thấy một người đang sắp chết đuối, vạn phần nguy cấp. Anh ta vội vàng thò cây sào xuống cho người bị nạn bám lấy leo lên thuyền. Song do hấp tấp, đầu bịt sắt của cây sào đâm vào mắt người bị nạn. Cái sống, cái chết gần kề nên người bị nạn chịu đau, cố trèo lên thuyền. Sau khi được sưởi ấm, thay quần áo khô và băng bó vết thương cẩn thận, người ấy hồi phục. Song hắn lại đổi ân thành oán, bắt đền con mắt bị thương kia. Anh làng chài lúng túng không biết xử trí ra sao. Người bị nạn liền đâm đơn đi kiện.
Gặp vụ kiện, quan huyện cũng rất đau đầu. Đứng về lý thì anh thuyền chài chọc thủng mắt anh kia. Người bị nạn lại không biết điều, không nhớ ơn người cứu mạng mình nên không thể phân giải bằng tình được. Hắn lại đòi, nếu không bồi thường được con mắt thì anh làng chài phải đi ở suốt đời cho hắn, bởi vì hắn không thể làm lụng được nếu không có con mắt.
Quan suy nghĩ mãi, đọc các sách để tra cứu cách xử tốt nhất, dạy cho kẻ vô ơn một bài học nhớ đời. Cuối cùng, quan tìm được một cách. Tại công đường, quan hỏi anh làng chài:
- Sao anh lại làm bị thương con mắt của hắn?
Người làng chài lúng túng chưa kịp trả lời thì tên kia đã nhanh nhểu cướp lời:
- Tôi đang ở dưới nước, nó lấy sào đâm xuống làm con mắt của tôi bị hỏng.
Quan hỏi tên bị hỏng mắt:
- Sao bảo lúc đó anh sắp chết đuối giữa dòng?
- Không phải! Lúc ấy tôi ở giữa dòng nước chứ không phải sắp chết đuối.
Quan bảo người làng chài:
- Vì anh làm mắt hắn bị thương, vậy anh phải làm lại con mắt hắn lành như cũ.
Quan lại hỏi người kia:
- Lúc anh chìm dưới nước, mắt đã bị thương chưa?
- Còn tốt nguyên!
Bấy giờ quan mới phán:
- Vậy thì, thầy Đội! Thầy hãy cho lính quẳng tên này xuống chỗ hắn sắp chìm để anh làng chài tìm cách chữa cho hắn. Nếu không chữa được ta sẽ bắt tội.
Thấy thái độ quan kiên quyết, anh chột mắt sợ quá, nếu bị ném vào dòng nước ấy thì còn gì nữa mà chữa nên xin rút đơn.
Quan sai lính đánh cho ba chục roi về tội vô ơn.


Lời bàn:
Theo triết gia Aristote thì “Lòng biết ơn là đức tính khởi đầu cho mọi đức tính”. Chính nhờ có lòng biết ơn mà trong gia đình có sự hiếu đễ, thuận hòa; trong xã hội có sự tận trung báo quốc, giữa con người có lòng tín nghĩa thủy chung, rộng hơn nữa là tình đồng bào đồng loại, đòi hỏi sự cảm thông chia sẻ. Thế nhưng có lắm kẻ không học được bài học khởi đầu là lòng biết ơn nên mới có hiện tượng “ăn cháo đá bát”, quên nghĩa đồng bào, bè bạn đã cưu mang cứu sống mình trong lúc hoạn nạn. Khi đã thoát hỏi hoạn nạn lại lấy ân làm oán như tên vô ơn kia. May thay có vị quan thông minh dạy cho hắn bài học về lòng biết ơn, nhưng tiếc rằng chỉ dạy ba chục roi thì quả là chưa đủ cho kẻ vô ơn thuộc bài.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#13 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:56:54(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Kiện cành đa

Có một người làm nghề buôn hương. Sau bao năm rày đây mai đó, một ngày nọ anh thu xếp công việc về thăm nhà. Đến đầu làng thì trời vừa tói. Anh ta chợt nghĩ không biết mấy năm xa cách lòng dạ người vợ thế nào? Muốn thử, anh ta bèn đem tất cả vốn liếng là một trăm hai mươi lạng bạc treo trên cành đa, khấn thần cây đa giữ hộ rồi mới về nhà.
Đêm ấy, thấy vợ vồn vã và tỏ ý nhớ thương, người lái buôn cho là vợ vẫn chung tình bèn đem việc anh giấu bạc ra kể lại. Ai dè chị vợ vốn xảo trá, trong thời gian chồng vắng nhà, chị ta bị xã trưởng quyến rũ, hai người đi lại tằng tịu với nhau đã lâu. Lúc anh chồng kể cho vợ nghe câu chuyện thì xã trưởng cũng vừa đến nơi, hắn đứng ngoài nên nghe hết chuyện. Thế là xã trưởng vội ra chỗ cây đa cuỗm đi tất cả số bạc. Tảng sáng hôm sau, người buôn hương ra lấy tiền thì than ôi, bạc đã không cánh mà bay. Nhưng không biết làm thế nào, người ấy đành cắn răng chịu mất.
Mấy tháng sau, có một quan trạng được nhà vua ban cho chức Khâm sai đại thần kinh lý qua vùng. Nghe tiếng quan trạng là người thông minh, tài giỏi, đã xử được nhiều vụ án rất phức tạp, người buôn hương bèn phát đơn kiện cành đa.
Xét đơn, quan trạng thấy vụ kiện éo le nhưng cũng nhận lời xét xử sau khi đã hỏi người lái buôn nọ kỹ càng. Thế rồi trạng sai quân lính rào kín chung quanh gốc đa, cấm mọi người lai vãng, lại bí mật cho đào cái hố, nghi trang kỹ rồi cho gia nhân núp sẵn dưới ấy. Ngày trạng mở phiên tòa xử kiện, thấy sự lạ dân chúng nô nức rủ nhau đi xem. Trước tòa, bên nguyên, bên bị đối chất. Người lái buôn khai y như trong đơn. Cây đa cũng nhận có giữ gói bạc, nhưng lại chối không biết ai lấy mất. Hỏi đi hỏi lại, cây đa cũng chỉ khai chừng ấy. Cho khảo đả, cây đa kêu khóc van xin nhưng cũng nhất mực kêu oan. Mãi ba ngày sau, dường như không chịu được đau, cây đa mới xin tả lại hình dáng kẻ lấy cắp, nhưng lại chỉ nói riêng với một mình quan trạng thôi!
Liền đó, trạng cho người buôn hương về, dặn mở tiệc ăn mừng thật to, bởi như vậy thế nào cũng bắt được thủ phạm, lại bảo nhỏ rằng: mở tiệc nhớ mời đủ cả làng và thả tất cả chó dữ ra khi khách tới. Người buôn hương y lời. Hôm ăn tiệc, mọi người tới, đàn chó trong nhà buôn hương được một bữa sủa hết hơi. Duy có viên xã trưởng đến là đàn chó mừng. Lập tức, những người của trạng chực sẵn ở sau nhà, ra bắt lấy hắn và giải đi. Trước mắt trạng, ban đầu xã trưởng còn chối lấy chối để, nhưng sau thấy trạng vạch tội hắn có lý lẽ sắc bén và cho biết thêm là cây đa đã thú thật mặt mũi người lấy trộm như thế, như thế nên hắn đành cúi đầu nhận tội.


Lời bàn:
Vụ án phá được là nhờ vị quan thông minh, phán đoán đúng đối tượng lấy túi tiền. Trong trường hợp cụ thể này thì chỉ có thể là người rình nghe được câu chuyện tâm tình của người buôn hương với vợ mới có thể biết chỗ để túi bạc. Ai có thể làm được việc đó mà đàn chó trong nhà vẫn im lặng? Giải đáp được câu hỏi đó thì phá được vụ án. Cao hơn nữa là quan sử dụng được mẹo “kiện cành đa”. Trong điều kiện phương tiện điều tra lạc hậu, dân trí thấp, còn nhiều mê tín dị đoan thì làm như vị quan trên quả là khôn khéo trong việc truy tìm thủ phạm.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#14 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:57:35(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Chàng Ngốc được kiện

Có một anh chàng thật thà quá đỗi cho nên nhiều người gọi anh là Chàng Ngốc. Chàng Ngốc khỏe mạnh, yêu đời và lao động giỏi. Chàng Ngốc nghèo khổ, không nhà không cửa, phải đi ở đợ cho một tên trọc phú, làm lụng quần quật suốt ngày này qua ngày khác. Thấy anh ta khỏe mạnh, dễ sai nên sau 5 năm, lúc đòi tiền công, hắn dỗ dành anh làm thêm 5 năm nữa. Lại 5 năm nữa trôi qua. Thấy anh đòi tiền công để về, trọc phú lại dỗ:
- Thầy trò mình quen biết đã lâu, chia tay nhau không nỡ. Thôi! anh cứ ở với em 5 năm nữa đi. Sau 5 năm nữa, em sẽ trả luôn cho anh cả 15 là ba nén vàng. Lúc đó thì anh sẽ trở nên giàu có.
Nghe bùi tai, anh lại đổ sức lực ra làm việc cho hắn thêm 5 năm nữa. Lần này hết hạn, anh nhất định đòi chủ trả công để về. Trọc phú dỗ mấy cũng không nghe, bèn mang ba nén vàng ra trả. Chàng Ngốc được vàng hí hửng cầm đi, không biết rằng đó là ba nén vàng giả mà trọc phú cố ý thưởng để cướp tiền công của anh ta. Khi có tiền vàng trong tay, Chàng Ngốc định bụng trẩy kinh, ngao du một phen cho thỏa lòng mong ước. Đi được mấy trạm anh gặp được người thợ bạc và làm quen. Người thợ bạc hỏi anh làm gì và đi đâu, anh không giấu giếm một tí nào hết, đưa cả ba nén vàng ra khoe. Người thợ bạc cầm vàng biết là vàng giả, nhưng thấy anh ngốc nghếch, mới nghĩ đến việc lợi dụng. Hắn bảo anh:
- Ở chốn kinh thành, trừ các nhà quyền quí không kể, còn những người như chúng ta cầm vàng rất khó mua bán. Sao anh không đổi ra bạc, đi đến đâu cũng tiêu được. Tôi sẵn có bạc đây, anh có muốn tôi đổi hộ cho, cứ một nén vàng ăn hai nén bạc. Muốn không?
Thấy có lý, Chàng Ngốc khẩn khoản nhờ đổi hộ. Không ngờ đấy chỉ là sáu miếng chì được đúc thành sáu thỏi rất khéo; anh vui vẻ cầm lấy và tiếp tục lên đường.
Đến một nơi khác, anh gặp người hàng giấy, anh làm quen và nhân vui miệng, anh kể rõ số bạc cùng ý định trẩy kinh cho người bạn mới này biết. Người hàng giấy nhìn thấy những thỏi bạc giả nhưng hắn đang cần chì, bèn gạ đổi một nghìn tờ giấy lấy sáu nén “bạc”. Hắn chỉ vào thứ giấy lụa dó và nói:
- Đây là “lụa đinh kiến” quý lắm. Anh cứ mang đến kinh thành mà bán, mỗi tờ lấy một quan tiền thì tha hồ mà lắm tiền.
Nghe bùi tai, Chàng Ngốc đổi ngay. Khi đi qua một trường học, anh thấy có mấy người học trò đang chơi một cái chong chóng làm bằng những mẩu giấy xanh đỏ rất đẹp mà anh chưa trông thấy bao giờ.
Anh chen vào xem và hỏi:
- Cái gì thế này?
- Đây là cái “thiên dịa vận”, dùng nó có thể biết được việc trời đất, mọi việc thế gian đều tỏ tường, việc gì cũng biết trước, quý không hết được.
Chàng Ngốc bèn gạ đổi một ngàn “lụa đinh kiến”.
Bọn học trò mừng rỡ, đổi ngay.
Đem cái “thiên dịa vận” đi, chàng khấp khởi mừng thầm, cho là sẽ có lúc mình làm cho mọi người kính phục. Qua cánh đồng rộng, chàng thấy một đám trẻ chăn trâu đang chơi một con niềng niễng lớn, có đôi cánh xanh biếc rất đẹp. Tò mò, anh dừng lại rồi xán vào xem. Bọn trẻ con không cho xem, chúng bịa ra để anh hốt:
- Đây là “ngọc lưu ly”, đeo vào người về mùa hè thì mát, về mùa đông thì ấm, quý vô cùng, chưa chắc đức vua có được.
Chàng Ngốc không ngờ lại có thứ của quí đến vua cũng khó có được, bèn đem cái “thiên địa vận” gạ đổi. Bọn trẻ thấy món đồ chơi đẹp thì bằng lòng ngay. Chúng bỏ con niềng niễng vào cái túi vải con, thất miệng túi lại và dặn anh:
- Lúc nào về đến nhà hãy mở ra xem, nếu không ngọc bay lên trời mất toi đó!
Được “ngọc lưu ly”, chàng dự định đưa lên kinh đô làm quà cho vua để được vào xem triều đình. Nhưng đến nơi, bọn lính gác Ngọ Môn không cho vào. Chàng Ngốc kể lể:
- Tôi đi ở 15 năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn lụa đinh kiến, rồi cái thiên địa vận mới đổi được ngọc lưu ly. Nay đem dâng vua sao không cho vào?
Một tên gian thần đi qua, nghe nói có ngọc lưu ly liền nảy lòng tham, nhận lời đem dâng lên vua, dặn anh chờ ở cửa. Tên gian thần này cầm cái túi, thấy có vật tròn tròn thì mừng thầm, bước vào qua cửa hoàng cung thì mở ra xem, định bụng sẽ chiếm đoạt. Bất ngờ con niềng niễng bay vụt đi mất. Chàng Ngốc nắm lấy bắt đền. Anh đấm cái trống ở cửa hoàng cung ầm ầm. Bọn lính xúm lại lôi và đánh, anh kêu khóc ầm ĩ. Thấy động, vua sai lính ra dẫn Chàng Ngốc vào hỏi đầu đuôi câu chuyện. Ngốc tâu:
- Tôi đi ở 15 năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn lụa đinh kiến, rồi cái thiên địa vận mới đổi được hòn ngọc lưu ly đem dâng vua. Nay có ông quan mở túi làm cho ngọc bay mất. Xin vua xử cho tôi.
Tên gian thần ra sức chối, song vua phán:
- Tên dân này đem hòn ngọc lạ dâng ta, đó là ý tốt. Để mua viên ngọc, hắn đã tốn bao nhiêu công sức tiền của. Vậy kẻ làm mất ngọc không những có tội với ta mà còn phải bồi thường cho người có ngọc đủ số vàng. Về phần ta, ta sẽ cho người có ngọc một chức quan nhỏ để nêu lòng trung nghĩa đối với ta.
Thế là tên gian thần phải bồi thường tất cả cho Chàng Ngốc. Tên trọc phú, tên thợ bạc và tên buôn giấy trước sau đều bị tù tội vì nhiều vụ lừa đảo không thoát.


Lời bàn:
Chàng Ngốc thắng kiện không phải nhờ tài năng mà nhờ ngốc gặp quan tham. Vua xử cho chàng ngốc thắng kiện, chỉ dựa vào lời khai của bên nguyên chứ không thấy tận mắt bên nguyên có ngọc. Vua lập luận theo kiểu mọi thứ ngon vật lạ thần dân đều đem dâng tặng vua và không kẻ nào dám nói dối ta để phải rơi đầu vì mắc tội khi quân phạm thượng. Đây là câu chuyện lãng mạn vào loại bậc nhất trong các câu chuyện lãng mạn của kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Ngốc quá hóa hay.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#15 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:59:21(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Vụ đòi hối lộ nơi cõi Phật

Thầy trò Tam Tạng lặn lội đến Tây Trúc thỉnh kinh. Qua mười vạn tám nghìn dặm với biết bao tai ương, chướng khí, cuối cùng đến dược đất Phật, gặp Phật tổ Như Lai. Như Lai tiếp đãi thầy trò Đường Tăng rồi gọi A Nan, Ca Diếp lại dặn:
- Các ngươi hãy dẫn bốn người đến dưới lầu báu, trước hãy đãi cơm chay, xong mở Bảo Các ra, đem pho kinh Tam Tạng của ta, trong ba mươi lăm bộ, chọn lấy mấy quyển giao cho họ truyền sang Đông Thổ, ghi mãi ơn sâu.
Sau khi tiếp cơm xong, A Nan, Ca Diếp dẫn thầy trò Đường Tăng xem khắp tên các bộ kinh rồi nói với Đường Tăng:
- Thánh Tăng từ Đông Thổ đến đây, phải có ít nhiều lễ vật cho chúng tôi chứ! Xin đưa ngay ra đây mới giao kinh cho.
Tam Tạng nghe, đoạn nói:
- Đệ tử Huyền Trang, đường trường xa cách, chưa hề sắm được.
A Nan, Ca Diếp cười nói:
- Tốt! Tốt! Tốt! Thế giao kinh không công thế này, người sau đến chết đói mất!
Hành Giả thấy bọn họ giở giọng xoay tiền, không chịu giao kinh, tức không nhịn được, kêu lên:
- Sư phụ ạ, chúng mình đi bạch Như Lai, bắt họ phải tự mang kinh đến cho lão Tôn!
A Nan nói:
- Đừng có kêu, ở đây là nơi nào mà nhà ngươi còn bướng bỉnh điêu toa! Lại đây mà nhận lấy kinh.
Bát Giới, Sa Tăng đã quen nén tính nóng nảy, khuyên can Hành Giả, rồi cùng quay đi nhận kinh, từng quyển, từng quyển xếp vào trong khăn gói, chất lên mình ngựa, lại chia làm hai gánh, cho Bát Giới và Sa Tăng gánh đi, rồi đều đến trước bảo tọa cúi đầu tạ ơn Đức Như Lai, đoạn đi thẳng ra cửa, gặp một vị Phật tổ, lạy hai lạy, gặp một pho bồ tát, lạy hai lạy. Ra tới cửa lại làm lễ chào tỳ kheo, tăng, ni, ưu bà di, tắc, rồi xuống núi trở về.
Lại nói, trên Bảo Các có vị Nhiên Đăng Cổ Phật, ngồi ở trên gác, mỏng tai nghe thấy công việc truyền kinh, đã biết rõ ràng bọn A Nan, Ca Diếp đem những kinh không có chữ giao cho thầy trò Đường Tăng, liền cười một mình nói rằng:
- Bọn nhà sư bên Đông Thổ ngu mê, không biết là kinh không có chữ, Thánh Tăng lặn lội lần này, lại chẳng toi công ư?
Liền hỏi:
- Bên tòa có ai ở đấy không?
Đã thấy Bạch Hùng Tôn Giả đứng ra. Cổ Phật dặn dò bảo:
- Ngươi hãy giở hết thần oai, đuổi theo cho kịp thầy trò Đường Tăng, bao nhiêu những quyển kinh không có chữ cướp lại hết, bảo chúng hãy trở lại cầu lấy chân kinh có chữ.
Bạch Hùng Tôn Giả cưỡi trận gió lốc, đi ra khỏi cửa chùa Lôi Âm, giở hết thần oai, đuổi theo bọn Tam Tạng. Đường Tăng đang đi đường, bỗng nghe thấy gió thơm cuồn cuộn, cứ bảo là điềm lành của Phật Tổ, chưa kịp đề phòng, lại nghe thấy có tiếng vang, một bàn tay ở trên không thò xuống, bao nhiêu kinh chất trên mình ngựa nhẹ nhàng nhấc đi hết. Tam Tạng hoảng sợ thót bụng lại kêu ca, Bát Giới cắm cổ đuổi theo, Sa Tăng đứng giữ mấy gánh kinh, Tôn Hành Giả cũng chạy đuổi như bay.
Vị Bạch Hùng Tôn Giả thấy Hành Giả đuổi gần đến nơi, sợ cây gậy của y không biết nể, nhỡ một khi bất chấp trái phải, choảng cho mình một gậy thì sao, liền đem cả gói kinh xé toang ra, vứt tung xuống đất. Hành Giả thấy kinh rơi xuống, lại bị gió thơm thổi bay lung tung, tức thì dừng mây bước xuống giữ lấy kinh, không chạy đuổi theo nữa. Vị Bạch Hùng Tôn Giả theo gió cuốn mây về báo với Đức Cổ Phật.
Bát Giới chạy đuổi theo, thấy các bổn kinh rơi xuống, bèn cùng Hành Giả thu lại đèo lên lưng, đến nơi Đường Tăng. Đường Tăng ứa hai hàng nước mắt:
- Đồ đệ ạ! Ở nơi cực lạc thế giới này, cũng vẫn còn ma dữ làm hại thế.
Sa Tăng đỡ lấy những quyển kinh vừa mang lại, mở ra coi, thấy trắng phau như tuyết, chẳng có một chữ nào hết, hoảng sợ nói với Tam Tạng:
- Sư phụ ạ! Quyển này không có chữ.
Hành Giả cũng mở một quyển ra xem thì cũng không có chữ. Bát Giới mở một quyển ra xem thì cũng không có chữ.
Tam Tạng bảo:
- Mở hết cả ra xem nào?
Mọi người cùng mở thì ra quyển nào cũng chỉ có giấy trắng.
Đường Tăng thở ngắn than dài nói:
- Người Đông Thổ nhà mình quả là vô phúc, những bản kinh không có chữ thế này, lấy để làm gì? Về gặp vua Đường thì làm thế nào! Cái tội dối vua thật dáng chết!
Hành Giả thấy vậy đoán biết rõ chuyện, nói với Đường Tăng:
- Sư phụ bất tất nói nhiều! Việc này là vì A Nan, Ca Diếp bắt ta phải có lễ, ta không có, cho nên mới đem bản kinh giấy trắng giao cho mình mang di. Ta nên trở lại ngay, bạch rõ trước mặt Như Lai, hỏi bọn y cái tội hạch tiền làm bậy.
Bát Giới nói:
- Phải đấy, phải đấy! Đi kiện họ đi!
Bốn người vội vàng trở về núi, hấp tấp trèo lên chùa Lôi Âm.
Một lát sau, đã đến bên ngoài cửa chùa, thấy mọi người đều chắp tay đón tiếp, cười nói:
- Thánh Tăng trở lại đổi kinh phải không?
Tam Tạng gật đầu tạ, các vị Kim Cương cũng không ngăn cản, để cho đi vào. Đường Tăng thẳng bước tới Điện Đại Hùng.
Hành Giả kêu:
- Bạch Như Lai, thầy trò chúng tôi chịu đựng trăm ma nghìn quái, từ bên Đông Thổ đến được chốn này, ơn Như Lai truyền trao kinh cho, bị A Nan, Ca Diếp hạch tiền không được, thông đồng làm bậy, cố ý đưa những bản kinh giấy trắng không có chữ cho chúng tôi mang về. Chúng tôi đưa của nợ ấy về làm gì? Mong Như Lai xét cho.
Phật Tổ cười nói:
- Nhà ngươi chớ làm ồn lên! Chuyện hai ngươi đó đòi lễ bọn ngươi, ta đã biết rồi. Có điều là kinh không phải ai cũng cho, mà cũng không thể lấy không dược. Trước đây, các tì kheo thánh tăng xuống núi, cũng đem bộ kinh này đọc hết một lượt cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ, giữ cho nhà ấy được sống an toàn, người chết siêu thoát, chỉ lấy của nhà ấy ba đấu ba thăng vàng cốm đem về. Ta vẫn bảo bọn họ bán quá rẻ, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà dùng. Các ngươi ngày nay tay không đến cầu, cho nên họ mới đưa quyển trắng. Những bản giấy trắng đó, là chân kinh không có chữ, cũng là một thứ tốt. Vì chúng sinh bên Đông Thổ nhà ngươi ngu mê không tỉnh, chỉ nên truyền cho như thế thôi.
Rồi liền gọi:
- A Nan, Ca Diếp, mau đem những bộ chân kinh có chữ ra đây, trong mỗi bộ chọn lấy mấy quyển cho thầy trò Đường Tăng, rồi trở về đây báo lại ngay.
A Nan, Ca Diếp lại dẫn bốn người đến trước lầu ngọc, gác báu, nhưng vẫn đòi Đường Tăng phải đưa tiền lễ. Tam Tạng không có gì dâng kinh, đành phải bảo Sa Tăng lấy bát tộ bằng vàng tía, hai tay dâng lên nói:
- Đệ tử quả là đường xa nghèo túng, không hề sắm được lễ vật. Bát tộ này chính tay vua Đường tặng cho, bảo đệ tử giữ lấy để xin ăn dọc đường, nay xin đem dâng tỏ chút lòng thành, cúi mong tôn giả thu lấy, đợi về triều tâu lên vua Đường xin sẽ hậu tạ. Chỉ cầu ngài lấy chân kinh ban cho, để khỏi phụ ý khâm sai và công phu đường xa lặn lội.
Vị A Nan đỡ lấy, chỉ chúm chím cười nụ. Mấy người lực sĩ coi lầu ngọc, mấy người đầu bếp ở Hương Tích, thấy A Nan như vậy, người vuốt mặt, kẻ dập lưng, nào xói tay, nào bĩu mồm cười rộ nói:
- Rõ bêu! Rõ bêu! Lại đi hạch lạc, đòi ăn lễ cả người lấy kinh.
A Nan hổ thẹn, mặt mũi dăn dúm, nhưng tay vẫn giữ chặt lấy cái bát tộ.
Ca Diếp mời thầy trò Tam Tạng vào trong gác kiểm kinh, lấy các thứ soạn ra đưa cho Tam Tạng.
Tam Tạng liền gọi:
- Đồ đệ đâu, chúng con xem lại cho cẩn thận, đừng để như lần trước.
Ba người đỡ lấy từng quyển, xem lại từng quyển, quyển nào cũng đều có chữ.


Lời bàn:
Cõi Phật là nơi mơ ước muôn đời của chúng sinh mà có cái cảnh đòi hối lộ thì thật là không còn chỗ cho chúng sinh mơ ước.
Cõi Phật mà còn có A Nan, Ca Diếp là vì cõi Phật còn có Thích Ca dung túng cho bọn họ. Chứ nếu không dung túng sao lại biết mà vẫn cười nói như không, lại còn khuyên thầy trò Đường Tăng đừng có làm ồn.
Tuy vậy, ăn hối lộ mà còn có người cười chê, kẻ ăn hối lộ còn biết xấu hổ như A Nan, Ca Diếp thì cõi Phật hơn xa ta nhiều lắm. Chỉ sợ nhất là cái cảnh: Kẻ ăn hối lộ được hoan hô, người ăn hối lộ không biết xấu hổ thì cõi ấy thật vô phương cứu chữa.
Không biết Phật Thích Ca có để A Nan đói quá hay không mà “A Nan hổ thẹn, mặt mũi dăn dúm, nhưng tay vẫn giữ chặt lấy cái bát tộ”. Xin bái Ngô Thừa Ân ba lạy! Cõi tôi đang sống không có cái cảnh quá lắm đó! Nhưng cũng xin hỏi tiên sinh: Còn chỗ nào không có cảnh đòi hối lộ không?
Đường Tăng là người mẫu mực và kiên định vào hạng bậc nhất chúng sinh mà còn phải nghiêng mình đưa cái bát tộ để lấy chân kinh thì không biết hạng chúng sinh thường tình phải xử trí thế nào khi gặp cảnh ngộ đó?
Mong rằng, không vì quang cảnh đòi hối lộ nơi cõi Phật mà bọn sâu dân, mọt nước ngày nay lấy đó để tự biện hộ cho tệ nhũng nhiễu, đòi hối lộ của mình. Bởi câu chuyện trên đây, chắc không nhằm chế giễu cõi Phật mà chủ yếu nhằm cảnh tỉnh thế gian.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#16 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 05:59:42(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Quan xử kiện tài giỏi

Đời nhà Nguyễn có một viên quan có tài xử đoán tên là Nguyễn Khoa Đăng. Ông là viên quan tốt, luôn luôn lo lắng đến việc giữ gìn cuộc sống yên vui cho dân lành. Ông đã đến trị nhậm ở hạt nào thì dân ở đấy mến phục, quí trọng như thần thánh. Tất cả các vụ kiện khi đã đến tay, dù khó đến đâu ông cũng tìm cách lần ra đầu mối và lần nào cũng giải quyết trọn vẹn. Dân miền Trung còn kể rất nhiều về tài xử kiện của ông.
Có lần, ông Nguyễn Khoa Đăng đến nhậm chức ở một huyện. Một hôm, có người dân đến cáo với ông rằng, không biết có kẻ nào oán thù mà đêm đến lẻn ra đồng phá nát cả một ruộng dưa. Bao nhiêu công lao chăm bón vun trồng, sắp đến ngày ăn quả, chỉ trong một đêm bị phá sạch sành sanh. Đau xót vì tiếc của, tiếc công, người dân đã đến kêu khóc với ông, xin được ông minh xét.
Ông Đăng theo ngay người ấy về ruộng dưa để thị sát. Tất cả các dấu vết còn lại chỉ nói lên được một điều là kẻ gian đã dùng thuổng xén đứt các ngọn dưa và dùng cán giằm nát hầu hết các gốc dưa. Kẻ gian rất khôn ngoan, bao nhiêu dấu chân, hấn đều cố ý xóa sạch. Ông hỏi người trồng dưa:
- Anh có ngờ ai thù oán mình không?
- Bẩm quan, con cũng có vài người trong làng mắc mớ nhau đôi chuyện lặt vặt, nhưng con không dám nghi ngờ cho ai cả.
Ông bắt người ấy kể tên mấy người ở xóm có chuyện đôi co và lập tức sai chức dịch đi thu hồi tất cả các thuổng trong xóm lại. Thuổng của nhà ai thì ghi tên, đánh dấu của nhà ấy vào cán. Đoạn ông đích thân khám kỹ từng chiếc cán thuổng một, nhặt riêng mấy cái khả nghi ra một nơi. Ông sai người lè lưỡi liếm trên mấy cái cán thuổng đó thì phát hiện ra một cái có vị nhân nhẫn đắng. Lấy một gốc dưa đập dập, vắt nước ra nếm thử thì chất đắng ấy của dưa cùng với chất đắng trên cán thuổng là một. Đến khi nhìn tên ghi trên cán thì đúng là tên của một người mà nguyên cáo khai là có xích mích với mình.
Người chủ thuổng được đòi đến. Trước tang chứng và lý lẽ đanh thép của quan, tên này không còn chối cãi vào dâu được, dành cúi đầu nhận tội. Ông bắt hắn phải đền hoa lợi ruộng dưa cho người kia, lại phạt lên gấp đôi để trừng trị thói ngầm hại người khác.
*
Lần khác, có một anh hàng dầu đặt gánh bán trong chợ. Trong lúc anh ta luôn tay đong dầu cho khách hàng thì có kẻ đã thừa dịp thò tay vào bị lấy trộm gần hết tiền. Mãi tới khi anh hàng dầu phát hiện ra bị nhẹ tênh thì tên ăn cắp đã biến đi đàng nào mất rồi. Anh ta nhớ tới một người mù hồi nãy quanh quẩn bên gánh của mình mà mấy lần anh ta đuổi cũng không chịu đi. Anh ngờ ngợ đoán đó là kẻ cắp bèn gởi lại gánh hàng cho người quen, rồi vội vàng đi tìm người mù lúc nãy. Bắt gặp người mù đang tha thẩn ở một góc chợ, anh túm lấy khăng khăng buộc tội ăn cắp cho y. Nhưng người mù cố hết sức cãi rằng mình tật nguyền đui mù thì có biết tiền ở dâu mà lấy. Anh hàng dầu không chịu nên hai bên xô xát đến nỗi tuần chợ bắt cả hai giải lên quan.
Trước công đường, ông Đăng bắt cả hai khai rõ sự tình. Người mù vẫn khăng khăng chối không nhận và đòi ông phải trị tội vu vạ người ngay của anh hàng dầu.
Ông Đăng hỏi người mù:
- Anh có tiền giắt trong người không?
Người mù đáp:
- Bẩm có. Nhưng đây là tiền của con mang theo.
- Anh cứ đưa ra đây, của ai rồi sẽ biết.
Người mù phải móc tiền trình lên quan. Ông Đăng sai lính mang ra một chậu nước rồi bỏ tất cả số tiền vào chậu thì thấy trên mặt nước có váng dầu nổi lên. Tất cả mọi người đều chứng kiến chuyện này, thành thử người mù kia không đường chối cãi, đành phải chịu nhận tội đã ăn cắp.
Tưởng mọi chuyện đã rõ ràng, nhưng quan còn nói thêm:
- Khoan đã, chưa hết đâu. Tội ăn cắp chỉ là một. Còn tội lừa đảo nữa. Nếu mi mù tịt thì làm sao mà biết được tiền của người hàng dầu bỏ trong bị, cất trong thùng mà lấy được? Đúng là anh giả mù. Lính đâu! Bắt nó nọc ra đánh cho rõ đau, kỳ cho bao giờ nó mở mắt ra mới thôi.
Chỉ mới nghe tiếng dạ ran của lính lệ và tiếng roi vút đen đét, người mù ấy đã vội mở to mắt, sụp lạy giữa công đường. Hắn phải thú tội ngay đúng như lời quan truyền bảo.
*
Một hôm khác, có một người buôn giấy đến trình với quan rằng, vừa rồi anh ta có nghỉ trọ ở làng Hồ Xá một đêm và bị trộm lấy mất cả gánh giấy. Ông Đăng hỏi rõ nguồn cơn, sai người đi do thám liền trong mấy ngày mà không có kết quả, ông bèn thân hành đến tận nơi nghĩ cách tra xét. Đến Hồ Xá, ông lệnh triệu tập dân chúng sở tại và mấy làng quanh đó lại truyền:
- Trên tỉnh vừa sức về bắt các xã thôn mỗi một người không kể nam phụ lão ấu phải làm ngay tờ khai tên tuổi, quê quán cho minh bạch. Hạn trong năm ngày, chức dịch làng nào thu lại tờ khai của làng ấy đem lên huyện nộp.
Lệnh vừa ban ra làm cho mọi người dua nhau đi mua giấy. Giá giấy ở chợ cứ thế lên vùn vụt.
Lúc bấy giờ tên trộm lấy được gánh giấy nhưng chưa có nơi tiêu thụ nên còn giấu trong nhà. Hắn nghe tin giá giấy lên cao, mừng rơn nên vội vàng đem một số ra chợ bán. Hắn không ngờ ông Đăng cho người chờ sẵn hắn từ lâu. Thế là trộm ta bại lộ. Ông Đăng xử phạt nó vừa phải đền tiền gánh giấy cho người lái buôn, vừa phải đền tiền cho dân các làng vì đã mất tiền kê khai tên tuổi.
*
Khi Nguyễn Khoa Đăng làm tri huyện ở một huyện nọ, có người đến cáo với ông là mình có một con trâu bị ai đó lén chặt đứt mất đuôi. Ông hỏi:
- Anh có nghi cho ai không?
- Bẩm quan lớn, con cũng có ngờ cho một người hàng xóm vì trước đây hai nhà có chuyện tị hiềm.
Nguyễn Khoa Đăng nghĩ ngợi một lát rồi nói nhỏ vào tai người ấy:
- Ta cho phép anh về cứ lẳng lặng mổ thịt trâu mà ăn, đừng trình làng mà cũng đừng nói là quan bảo.
Phép nước bây giờ rất nghiêm, ai tự tiện giết trâu bò, thậm chí hàng xóm biết người giết trâu bò mà không cáo giác cũng đều bị phạt nặng vì trâu bò được xem là công cụ chính để sản xuất.
Tên chặt trộm đuôi trâu thấy lại có cớ để hãm hại tiếp người mà hắn thù hằn nên vội vàng lên báo quan. Quan sai giam hắn lại để tra hỏi. Trước những khí cụ nhục hình và các lời buộc tội đanh thép, sắc sảo của quan, hắn đành phải cúi đầu nhận tội.
*
Nguyễn Khoa Đăng lại được đổi đi trấn nhậm một hạt miền núi. Vùng này nổi tiếng là nơi có nhiều trộm cướp nhà nghề. Triều đình và các quan trước ông phải bó tay vì không tài nào trị nổi. Nhà vua hy vọng đức độ và tài năng của Nguyễn Khoa đăng có thể phủ dụ được vùng này.
Nguyễn Khoa Đăng sai một số người thân tín di dò la hành tung từng tên cướp một, ghi chép đầy đủ chứng cứ tội trạng từ trước đến giờ. Hồ sơ thu thập đầy đủ nhưng ông vẫn giả như chưa hề biết gì. Trong thời gian đó, bọn cướp vẫn ngang nhiên hoành hành khiến nhiều người tỏ ra nghi ngờ khả năng trị dân của ông. Song ông vẫn mặc kệ.
Một hôm di hành qua làng nọ, Nguyễn Khoa Đăng thấy bên vệ đường có một hòn đá lớn, chân hương cắm chi chít xung quanh. Ông hỏi dân địa phương, họ đáp:
- Đây là ông Mốc, ngài thiêng lắm. Ai cầu khẩn điều gì cũng đều được linh ứng.
Ông nghe vậy chợt nghĩ một mẹo, liền họa theo:
- Phải thế thì ta tới cầu ngài giúp ta trừ yên trộm cướp để bớt hại cho dân chúng mới được.
Nói rồi ông bước tới hòn đá, một mình khấn khứa hồi lâu. Trở ra ông nói với mọi người:
- Ngài nói vài ngày nữa rước ngài về, ngài sẽ vạch mặt tất cả bọn gian phi trong toàn huyện.
Trở về, ông sai người bí mật đào hầm ở giữa sân công đường, cho người thân tín xuống nấp ở dưới đó. Sáng hôm sau, ông cho lính mang vàng hương đi rước hòn đá về đặt trên mặt hầm. Trước tất cả công chúng, Nguyễn Khoa Đăng dõng dạc hỏi đá:
- Ta nghe đồn thần đá rất linh thiêng, “hữu cầu tất ứng”. Nay ta vâng mệnh hoàng đế đến đây trấn nhậm, nhưng thấy trong huyện có nhiều trộm cướp nhiễu hại dân cư. Vậy ta thỉnh thần về đây để mách hộ ta truy tầm kẻ phạm pháp. Nếu có công, ta sẽ tâu xin triều đình phong tặng.
Đá lặng im, không trả lời. Hỏi mãi, đá vẫn một mực làm thinh. Nguyễn Khoa Đăng giả bộ quát lớn.
- Hay là đá đồng lõa với bọn phạm pháp? Lính đâu, hãy tra tấn cho nó khai ra mới thôi.
Lệnh truyền ra; hàng chục lính lệ dùng roi hè nhau quất túi bụi vào hòn đá. Dăm bảy chiếc roi đã bị gãy giập, đá vần chưa chịu mở miệng. Chỉ thấy bọn lính quát tháo, hò hét vang cả công đường. Bấy giờ mọi người nghe tin quan khảo đá nên tò mò kéo đến xem đông như đi hội. Họ căng thẳng và nghi ngờ chờ đợi. Mãi một hồi lâu, tự dưng đá bật ra tiếng kêu khóc, xin dừng tay lại để khai. Thế rồi, đá lần lượt khai và vạch tội từng tên cướp một. Mỗi lần đá khai ra tên nào, quan sai lại mục viết ngay trát, giao cho lính đã chực sẵn đi bắt ngay lập tức. Suốt ngày hôm đó bắt được ba mươi tên cướp kỳ cựu. Khi cả bọn bị giải một lô về đến dinh, chúng hết sức kinh ngạc vì không ngờ sự việc xảy ra như thế. Chúng đều tin rằng, chỉ có thần đá linh thiêng mới biết rành rọt các tội trạng của mình, nên không chờ đợi tra khảo, đã cúi đầu nhận tội.
Vậy là cả một vùng trộm cướp đã được yên. Dân chúng trong vùng ai cũng phục tài quan huyện.


Lời bàn:
Cái thói hại ngầm người khác bằng cách phá hoại hoa màu thường xảy ra ở nông thôn. Vụ việc rất khó tìm ra thủ phạm vì thiếu bằng chứng hoặc vì sự quan liêu, coi thường lợi ích chính đáng của dân mà không tiến hành điều tra đến nơi đến chốn của các bản chức có thẩm quyền. Khen thay vị quan tài giỏi Nguyễn Khoa Đăng biết yêu dân, lo lắng cho dân, đến tận ruộng dưa để tìm hiểu vụ việc và có phương pháp điều tra thông minh, phát hiện thủ phạm kịp thời chính xác. Trong điều kiện xã hội hiện nay, thì cách điều tra và kết luận của Nguyễn Khoa Đăng cũng được coi là hết sức khoa học và chính xác, cần học tập. Vị đắng trên cán thuổng trùng hợp với vị đắng của dưa là chứng cứ pháp lý gián tiếp buộc tội người chủ cái thuổng ấy. Duy có điều khác là ngày nay không cần phải cho người lè lưỡi liếm thử vị đắng của dưa trên cái thuổng mà có thể cho làm xét nghiệm.
Cách truy tìm chứng cứ như Nguyễn Khoa Đăng là hết sức tài tình. Trong điều kiện khoa học điều tra lúc ấy mà làm rõ các vụ án như vậy thì quả là tài giỏi. Nhưng cái đáng quý thất của quan là tấm lòng vì nước vì dân. Chỉ có tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ mới có thể suy nghĩ và sáng tạo ra cách giải quyết vấn đề như vậy. Nếu cứ “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” thì dù sự việc rõ ràng quan cũng tìm không ra chứng cứ - vụ án không thể phá.
Tất cả các phương pháp mà Nguyễn Khoa Đăng dùng để điều tra, rất đáng để chúng ta học tập. Bởi lẽ tính khoa học của các phương pháp ấy vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn cho đến ngày nay.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#17 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 06:00:24(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Người ban hành pháp luật không thi hành pháp luật do chính mình ban ra

Tháng 5 năm Đại Khánh thứ hai (1315), vua Trần Minh Tông (1314-1339) ban hành một đạo luật cấm cha, con, vợ, chồng cáo giác lẫn nhau và cấm đầy tớ cáo giác chủ. Thế nhưng chính nhà vua lại không láp dụng diều luật này và đã gây nên vụ án chính trị oan ức cực điểm, giết hại một công thần là Trần Quốc Chân.
Trần Quốc Chân vốn là con Trần Nhân Tông - nghĩa là chú của vua Trần Minh Tông. Hơn nữa, Trần Minh Tông lại lấy con của Trần Quốc Chân làm hoàng hậu (triều Trần thường xảy ra việc lấy nhau giữa những người bà con anh em trong dòng họ để giữ ngôi vua). Ngoài ra, Trần Quốc Chân có công đi đánh Chiêm Thành thắng trận nhiều lần nên được phong làm Phục Quốc Thượng Tể.
Vua đã già, Hoàng hậu không có con nên năm Khai Thái thứ 5 (1328), triều đình chia làm hai bè đảng, một đảng do Trần Quốc Chân đứng đầu, muốn giữ địa vị cho con gái mình, chủ trương nên đợi hoàng hậu sinh thái tử; đảng phái đối lập có Văn Hiến hầu Trần Khắc Chung (là ông chú của vua Trần Minh Tông) đề nghị lập ngay con của thứ phi là hoàng tử Vượng làm Thái tử. Để được đắc thắng, Trần Khắc Chung cho một tên đầy tớ của Quốc Chân là Trần Nhạc 100 lạng vàng, xui nó vu cáo Quốc Chân làm phản. Minh Tông bắt Quốc Chân giam ở chùa Tư Phúc, sau Minh Tông lại nghe lời dèm của Trần Khắc Chung lấy lẽ rằng bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó, cấm không được tiếp tế đồ ăn cho Quốc Chân. Hoàng hậu thương cha, phải lấy áo nhúng nước mặc vào người, tới thăm cha vắt cho cha uống! Uống xong nước Quốc Chân chết. Mãi về sau, vì có người vợ lẽ của Trần Nhạc, ghen nhau với vợ cả đi tố giác ra sự vu cáo của Trần Nhạc, mới minh oan cho Quốc Chân. Trần Nhạc bị lăng trì; Trần Khắc Chung được tha tội chết nhưng phải truất xuống làm thứ dân và của cải bị sung công.


Lời bàn:
Câu chuyện lịch sử có thật trên cho ta thấy chính người ban hành luật đã dày xéo lên đạo luật do chính mình ban ra. Vua Trần Minh Tông không những giày xéo một lần, mà là hai lần:
- Một lần căn cứ vào sự cáo giác của đầy tớ đối với chủ để giết chết Trần Quốc Chân;
- Một lần căn cứ vào sự cáo giác của vợ đối với chồng để xử tội Trần Nhạc và Văn Hiến hầu Trần Khắc Chung.

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#18 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 06:01:16(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Họ Đào được kiện

Cả làng Hạ mấy hôm nay cứ ầm ĩ lên vì câu chuyện vừa xảy ra ở nhà Khán Tộ. Chẳng biết bói toán thế nào, động mồ động mả ra sao mà Khán Tộ cho cải táng lại mộ của vợ lão đã chết cách đó mấy năm? Chuyện lạ là khi quật mộ lên thì thấy áo quan rỗng tuếch. Không ai hiểu ra làm sao cả. Người ta bàn tán về chuyện di hài vợ Khán Tộ bị mất không để lại một đốt xương, một mẩu vải nào. Cuối cùng, người ta chỉ đoán già đoán non chắc nhà Khán Tộ có chôn của nả gì đó.
Trong khi đó thì Khán Tộ không hề tỏ ra chút gì ngạc nhiên. Có điều ai hỏi hắn về chuyện này thì không lúc nào hắn mặn mà bắt chuyện. Thỉnh thoảng, chỉ thấy hắn đánh tiếng dọa dẫm bâng quơ:
- Phen này thì có thằng mất nghiệp với ông!
Một vài ngày sau, người ta thấy Khán Tộ sắp xếp ô tráp hí hứng lên huyện. Hắn phát đơn kiện viên thư lại họ Đào đã quyến rũ vợ hắn.
Trước công đường, quan huyện gọi cả Khán Tộ lẫn viên thư lại họ Đào đối chất. Khán Tộ cáo rằng vợ của họ Đào chính là vợ của hắn cách đây ba năm. Ba năm trước đây họ Đào nghèo hèn có đi làm thuê ở làng Hạ và đã chim chuột để tìm cách cướp vợ Khán Tộ. Một lần vợ hắn bị chồng phát giác việc xấu xa này nên nhân lúc chồng nóng nảy đánh cho mấy bắp cày đã lăn ra giả chết, rồi tìm cách theo trai. Khán Tộ trình lên quan cả tờ hôn thú, có ghi tên tuổi của mình và vợ - chính là vợ họ Đào hiện nay, và đòi quan huyện phải bắt họ Đào trình hôn thú.
Họ Đào không có hôn thú, không biết trình khai thế nào. Thế là quan xử cho Khán Tộ được kiện. Họ Đào phải trả vợ cho Khán Tộ và phải nộp phạt nặng vì tội “quyến rũ vợ người”. Quan hạn trong vòng mười ngày, họ Đào phải bàn giao tài sản, trả vợ, còn bản thân thì phải sung vào lính. Họ Đào một mực khóc lóc, kêu oan nhưng quan không nghe. Quan cho Khán Tộ về nhưng giam họ Đào lại và cho bắt luôn cả Đào Thị, niêm phong nhà cửa lại.
Vợ chồng họ Đào gặp tai nạn bất ngờ không biết kêu ai. Anh chồng cố nài xin quan cho vợ chồng gặp nhau lần cuối cùng trước khi chia tay. Quan huyện thương tình đồng ý nhưng bắt hai người đứng ngay ở công đường mà trò chuyện. Vợ chồng họ Đào gặp nhau khóc lóc thảm thiết. Đã đến lúc phải chia tay nhưng họ vẫn quyến luyến không muốn rời nhau, chị vợ mấy lần ngất đi, tỉnh lại cứ muốn đập đầu tự sát. Nhìn thấy cảnh thương tâm đó, mọi người trong dinh quan đều không thể cầm lòng. Chẳng là viên thư lại họ Đào xưa nay vẫn được lòng mọi người trong dinh quan nên ai cũng mến. Ngay cả quan huyện cũng chưa hề quở trách họ Đào vì một công việc gì. Đến nay gặp phải chuyện này, chính quan cũng lấy làm tiếc Nhìn cảnh chia tay mủi lòng đó, quan huyện ngẫm nghĩ: “Có lẽ ta xứ thiên về lý quá chăng? Trong chuyện này chắc còn ẩn tình gì đây, cần phải xem xét lại.” Nghĩ vậy, nhưng quan vẫn không thay đổi lệnh với vợ chồng họ Đào. Ông chỉ cho người canh chừng để tránh chuyện vợ chồng ấy liều thân. Trong lúc ấy ông cho gọi một người tin cẩn đến rỉ tai dặn cứ làm như thế... như thế...
Lại nói Khán Tộ thắng kiện trở về không tốn kém xu nào nên lập tức cho mổ lợn ăn khao. Hắn phấn chấn ra mặt vì tự dưng được hưởng cả một gia tài, lại thêm được một người về phục dịch cho nhà hắn. Hắn kiện vụ này không phải chỉ vì người vợ đã chết của hắn mà còn vì muốn chiến gia tài của họ Đào mà hắn tin rằng có thể cướp được. Đúng như Khán Tộ dự liệu, hắn đã được keo này. Vậy thì tội gì không mở tiệc ăn khao?
Bà con họ hàng xúm đến mừng Khán Tộ. Mặt Khán Tộ đã sẫm đi vì rượu. Y cười nói ầm ĩ không còn giữ gìn gì nữa cả. Chính trong lúc bốc đồng nhất, Khán Tộ đã nói ra toàn bộ câu chuyện. Hắn nói là hắn thừa biết viên thư lại họ Đào ăn ở với vợ hắn suốt ba năm nay nhưng bây giờ mới đi kiện là muốn chiếm gia tài, chứ hồi đó họ Đào nghèo kiết xác thì hắn cần quái gì.
Trong bữa rượu ấy, có một người buôn tơ mới đến làng này nhưng cũng được Khán Tộ mời dự tiệc. Khán Tộ vì quá phấn chấn nên càng tỏ ra dễ dãi, hào phóng. Còn người lái buôn thì miệng cũng nhanh nhẩu ca ngợi tài của Khán Tộ một cách nhiệt thành. Để góp cho cuộc vui, anh ta còn kể ra một vài mẹo vặt của nghề buôn bán. Lúc đã ngà ngà say, anh ta tự nhận rằng mình cũng đã đi lại nhiều nơi, nhưng chưa thấy ai mưu mẹo, giỏi giang như Khán Tộ. Thế là được đà Khán Tộ tuôn ra từ đầu tới cuối vụ kiện vừa rồi.
Theo lời Khán Tộ thì hơn ba năm về trước, họ Đào là một thư sinh đẹp trai, học giỏi, chỉ phải cái rất nghèo. Thường ngày, họ Đào vẫn cắp sách theo học với một ông đồ ở làng bên nhưng vẫn phải đi làm thuê, làm mướn để kiến tiền đổi gạo nuôi thân. Cuộc sống của họ Đào khá túng thiếu và vất vả. Nhưng họ Đào vẫn kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống ấy suất năm sáu năm ròng, mặc cho nhiều người khinh khi, cười chê. Ở chỗ làng họ Đào đến học, có một cô con gái con nhà khá giả yêu anh ta và cũng được anh ta yêu lại. Hai bên có tình ý với nhau như vậy cũng được vài năm. Họ Đào đã mượn mối đến dạm hỏi cô gái làm vợ nhưng bố mẹ cô gái chê anh ta nghèo, không gả. Cha mẹ cô bảo với người mối:
- Nhà anh ấy có một mình mà kiếm ăn còn chật vật, làm sao nuôi nổi vợ con? Con gái tôi về chỉ làm cho anh ta thêm bấn.
Người mối cũng đã cố thuyết phục:
- Anh ta có chí, lại học giỏi, con gái ông bà lấy anh ta thì chẳng mấy mà thành bà nọ, bà kia.
- Nếu thế thì hãy đợi lúc ngựa xe võng lọng trở về hẵng hay!
Thấy thái độ của bố mẹ cô gái như vậy, họ Đào vừa giận vừa thẹn. Anh nghĩ bụng, phải ra đi quyết chí lập cho được công danh mới trở về cho cha mẹ nàng không dám giở giọng khinh bạc với mình nữa. Nghĩ vậy, anh lần mò ra tới kinh đô. Ở đây, anh vẫn vừa làm thuê, vừa ra sức học hành. Anh đi thi và đỗ luôn cử nhân.
Hôm vinh quy về làng, họ Đào lòng mừng khấp khởi. Anh nghĩ: “Nhất định bố mẹ cô ta vui lòng gả con cho mình và phải hối hận về những câu nói khinh bạc trước đây”. Nhưng thật không ngờ, khi anh đến chào thầy học cũ thì gặp người cho biết, sau khi anh bỏ làng đi, cô gái ấy đã bị cha mẹ ép gả cho một người trong làng, mặc dù cô không ưng thuận và có bụng đợi anh. Nghe nói, chàng họ Đào buồn rầu. Anh bỏ dự định đến nhà cha mẹ người yêu, cũng chẳng muốn đến nhà người yêu nữa. Nhưng anh không dứt được ý muốn gặp lại người yêu. Vì vậy mà họ Đào không chờ sự bổ dụng của nhà Vua, chán hết mọi thứ nên anh chỉ xin làm chân nha lại tại huyện nhà để sống đạm bạc nốt những ngày còn lại.
Một ngày, họ Đào có việc đi công cán, giữa đường bất ngờ gặp lại người yêu ngày xưa. Hai người đứng lại hàn huyên. Họ bày tỏ nỗi đau khổ và éo le của duyên phận. Khi chàng họ Đào từ giã, cô gái gạt nước mắt đứng nhìn theo. Nàng đâu ngờ rằng, từ đằng xa người chồng của mình đã nhìn thấy cảnh trò chuyện vừa rồi và cơn ghen của hắn bốc lên bừng bừng. Khi nàng vừa đến nơi, hắn lấy cớ đưa cơm chậm chạp, xông lại gây sự. Nàng có nói lại hắn mấy câu, thế là cơn giận nổi lên, không đợi tìm hiểu phải trái, hắn tháo ngay bắp cày quật vào người vợ. Không ngờ phạm vào chỗ hiểm, người vợ gục xuống bất tỉnh nhân sự. Hắn lo sợ, lén lút vực vợ về nhà nói dối là ngộ cảm rồi sau đó cử hành chôn cất, khiến cho không một ai ngờ vực.
Buổi chiều hôm đó, họ Đào quay về, qua làng người yêu thì nghe kèn trống đám ma. Anh ta hỏi thăm biết được tin người yêu chết đột ngột nên không ngăn được kinh ngạc và thương cảm. Lập tức trở về nhà, họ Đào làm một cỗ cúng, chờ đến đêm thật khuya, đem đến cúng ở mộ người yêu. Vô cùng thương cảm người tình, trong lúc cuồng nộ, họ Đào dùng hết sức mình đào ngôi mộ, cạy nắp quan tài để nhìn người yêu. Giữa đêm lạnh lẽo, anh ôm chặt xác nàng và khóc cho số phận hẩm hiu... Bỗng họ Đào thấy một sự lạ. Cô gái trong tay anh sống lại dần dần. Anh định thần. Đúng là người yêu của anh còn sống. Đúng rồi, đúng là nàng chỉ bị đánh ngất lịm đi, nhưng chồng nàng quá sợ hãi, sợ bị quy vào tội giết người nên vội khâm liệm đem chôn cất sơ sài. May mà họ Đào bới mộ lên và khí lạnh ban đêm làm cho nàng dần dần tỉnh lại...
Họ Đào mừng rỡ vô cùng, đắp mộ lại như cũ rồi vực người yêu về nhà hết lòng chạy chữa. Khi nàng đã trở lại bình thường, anh họ Đào bèn bí mật đưa người yêu đến chỗ làm và hai người trở nên vợ chồng không cheo cưới.
Khán Tộ cũng như người làm không ngờ người chết được cứu sống lại. Gần một năm ròng, Khán Tộ vẫn giỗ cúng theo tục lệ. Hắn vẫn giữ gìn vì sợ bị phát giác chuyện giết vợ. Nhưng một lần tình cờ theo một dám hội chùa trong vùng, Khán Tộ gặp một bà có vẻ quý phái nhà quan, nét mặt hao hao giống người vợ cũ. Hắn lấy làm lạ, vội đuổi theo để nhìn cho kỹ. Đứng nấp ở cổng chùa, Khán Tộ thấy người ấy từ mặt mũi, vóc dáng, cho đến giọng nói, dáng đi, quả đúng là vợ cũ của mình. Hỏi thăm, hắn còn biết chồng nàng không phải ai xa lạ mà chính là người học trò họ Đào. Bây giờ vợ chồng họ Đào đã bắt đầu ăn nên làm ra.
Khán Tộ nghi nghi hoặc hoặc vì chính hắn đã tự tay chôn vợ hai năm rõ mười mà bây giờ nàng lại sống đàng hoàng như thế. Chắc chắn có sự lường gạt chi đây? Thế là trở về làng, hắn lẳng lặng một mình đi thăm mộ vợ. Khi biết mình mới là kẻ bị lừa, hắn tức điên lên. Hắn nghĩ ngợi rất lâu, cuối cùng tìm ra một kế. Hắn nén lòng chờ tiếp mấy năm liền, mãi đến khi cơ ngơi nhà họ Đào đã thật khá lên đúng như hắn tính toán, mới phát đơn kiện.
*
Sau mười ngày theo hạn quan huyện đã định, Khán Tộ ăn mặc chỉnh tề, biện một lễ hậu lên tạ quan để nhận tài sản và vợ. Nhưng thật không ngờ, hắn vừa ló mặt vào công đường đã bị quan sai trói lại Trước tất cả mọi người, Khán Tộ đã nghe người buôn tơ tố cáo tất cả những việc mà hắn đã kể trên chiếu rượu hôm nào. Nghe nhân chứng nói xong, quan huyện mới phán:
- Khán Tộ không những mất vợ mà còn bị án khổ sai chung thân vì tội đã sát vợ và lén lút đem chôn có đầy đủ tang chứng, lại âm mưu chiếm đoạt tài sản của người. Việc làm đã do tội nhân tự khai ra. Vợ cũ của Khán Tộ và họ Đào vô tội và được phép thành vợ chồng vì họ Đào có công cứu thoát người chết. Gia cư tài sản của Khán Tộ một nửa cho Đào thị, một nửa sung công.
Thế là anh chàng họ Đào được kiện.

 

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#19 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 06:03:58(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Kết quả một vụ kiện

Giáp có một thửa ruộng lớn sát với thửa ruộng của Ất. Giữa hai thửa ruộng có một cái bờ rộng làm lối đi lại, vận chuyển lúa mỗi khi thu hoạch vụ mùa. Từ trước đến nay hai người vẫn hòa thuận, dùng bờ ruộng làm lối đi chung. Nhưng kể từ khi hai người có mối bất hòa thì quyết không dùng chung lối đi nữa. Ất xem lại giấy tờ và đo đạc lại ruộng thì thấy ràng Ất có hai phần bờ ruộng, còn Giáp chỉ có một phần. Giáp cũng xem lại giấy tờ và đo đạc lại ruộng thì cũng thấy mình có hai phần, Ất chỉ có một phần. Việc xảy ra tranh chấp, cả hai đưa đơn lên quan huyện. Ất muốn được kiện nên đem 5 quan đút lót cho quan huyện. Nhận tiền, quan hứa thế nào cũng xử cho Ất được kiện. Giáp cũng sợ thua kiện, đem 10 quan đến hối lộ quan. Quan huyện cũng nhận.
Hôm xử, quan cho Giáp được. Ất trợn mắt, giơ năm ngón tay ra ý nhắc mình đã tặng 5 quan. Điềm nhiên, quan giơ mười ngón tay và bảo:
- em cũng biết anh phải nhưng nó còn phải bằng hai anh!
Biết mình vì lo lót ít hơn Giáp mà bị thua kiện nên Ất kiện lên quan phủ. Để nắm chắc phần thắng, Ất chờ cho Giáp chạy lo lót trước. Quả nhiên, vì sợ thua kiện ở phủ nên Giáp đem 10 quan tiền lo lót cho quan phủ. Quan phủ hứa sẽ xử y án như quan huyện đã xử cho Giáp thắng kiện. Sau khi biết được Giáp đã lo lót cho quan phủ 10 quan tiền, Ất bèn đem 20 quan đến lo lót quan phủ.
Hôm xử, quan phủ cho Ất được. Giáp lại trợn mắt giơ 10 ngón tay ra ý nhắc nhở là mình có tặng 10 quan. Thản nhiên quan phủ bảo:
- em cũng biết anh phải nhưng nó còn phải bằng hai anh!
Giáp biết mình lo lót ít hơn Ất nên thua kiện. Cảm thấy bị nhục nên Giáp quyết kiện lên nhà vua. Ất thấy Giáp còn kiện mình bèn khăn gói lên đường ra kinh đô cùng với Giáp để dễ bề chạy chọt kịp thời. Sợ chồng bị thua kiện, nên hai bà vợ lo toan cho chồng đủ tiền lên đường.
Lúc chờ đợi nhà vua xét xử, cả hai đều tìm đến quan cận thần và hoàng thân quốc thích để nhờ giúp đỡ. Họ đều tốn khá nhiều tiền.
Hôm xử, vua phán:
- Bờ ruộng hai ngươi phải giữ như cũ làm lối đi chung, không ai được tự tiện ngăn chia.
Ất, Giáp về lại quê nhà thì được biết cả hai bà vợ của họ đã bán hai đám ruộng ấy để trả nợ nần vì chi phí cho hai ông chồng đi thưa kiện.


Lời bàn:
Ruộng đất của mỗi người đều có giấy ghi rõ diện tích nhưng khổ nỗi nhiều lúc giấy tờ lại có sự khác biệt với thực tế. Chính đó là một trong những lý do gây ra tranh chấp. Nhưng lâu nay tại sao họ lại không tranh chấp? Đó là vì lâu nay họ đoàn hết, hòa thuận, nhường nhịn nhau. Giả sử, lúc đang hòa thuận, nếu phát hiện giấy tờ ghi sai họ sẽ tự thương lượng điều chỉnh, nhưng lúc đã bất hòa thì chuyển thành vụ kiện.
Đây là bài học cho tất cả mọi người từ xưa đến nay. Ông bà ta có câu: “Vô phúc đáo tụng đình, hoặc “Được kiện mất chín, thua kiện mất mười”, thật quả không sai. Ất và Giáp vì tranh chấp một bờ ruộng mà kiện nhau. Được bờ ruộng đâu không thấy, chỉ thấy tốn công hại của đến nỗi phải bán ruộng. Điều trớ trêu là kết quả cuối cùng sau ba lần xét xử là phải giữ nguyên trạng như ban đầu.

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Offline congtu_dangyeu259  
#20 Đã gửi : 26/05/2006 lúc 06:05:44(UTC)
congtu_dangyeu259

Danh hiệu: Thành viên gắn bó

Nhóm: Thành viên chính thức
Gia nhập: 01-04-2005(UTC)
Bài viết: 2.262
Man
Đến từ: Thanh hóa

Thanks: 101 times
Được cảm ơn: 100 lần trong 83 bài viết

Lãng mạn pháp luật

Yết thị

Ngoài đường không có đèn. Tối đến quan Phủ Doãn đi vấp phải người ta, lấy làm giận lắm. Sáng mai, quan ra yết thị: “Ai đi đêm phải cầm đèn”. Đêm hôm ấy quan đi, lại vấp phải một người. Quan quở:
- Ngươi không đọc yết thị à?
Người kia đáp:
- Bẩm có đọc.
- Thế sao người không thắp đèn?
- Bẩm, trong yết thị chỉ thấy nói phải cầm đèn, chứ không thấy nói phải cắm nến.
Quan Phủ Doãn về, sáng hôm sau lại ra yết thị: “Ai đi đêm phải cầm đèn, trong đèn phải cắm nến”.
Đêm hôm ấy quan đi, lại vấp phải một người.
Quan lại quở:
- Đi đêm sao không có đèn, có nến?
Người kia đáp:
- Bẩm, tôi có đủ dèn, đủ nến ạ?
- Thế sao ngươi không thắp lên?
- Bẩm, vì trong yết thị không thấy nói đến thắp nến.
Quan Phủ Doãn về, sáng hôm sau lại ra yết thị: “Ai đi đêm phải cầm đèn, trong đèn phải cắm nến, nến phải thắp”.
Nhưng lại một hôm, nửa đêm, quan đi lại vấp phải một người có đèn, có nến nhưng nến đã tắt.
Quan lại quở. Người kia nói:
- Bẩm, trong yết thị không thấy nói hết cây nến này, phải tiếp cây nến khác ạ.


Lời bàn:
Đây là câu chuyện lãng mạn nhưng có ý nghĩa thực tiễn rất cao. Hiện nay, nhiều văn bản pháp luật đã ban hành còn nhiều thiếu sót, phải sửa đi sửa lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh. Chỉ đến khi đi vào thực hiện mới phát hiện ra thiếu sót Một văn bản quy phạm pháp luật hay áp dụng pháp luật mà không đầy đủ thì tạo sơ hở cho một số người biết tận dụng để trục lợi, còn đa số nhân dân thì bị gây khó dễ vì sự không rõ ràng của văn bản.
Phải gặp nhiều người dân cãi lý như thế thì quan Phủ Doãn mới tiến bộ hoặc nếu không thì bị thay thế.

Trên đời này không có tình yêu nào gọi là bất tử, sự "bất tử" nằm ở chính những gì mà người yêu nhau mang đến cho nhau.0945648158
Rss Feed  Atom Feed
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
2 Trang12>
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.